xem phim hài 18+

Đọc một số bài thơ trong “Lễ tẩy trần tháng tư – The purification festival in April” của Inrasara Posted: 30/11/2017 in Giới Thiệu Sách / Điểm Sách , Phan Thành Khương

Thẻ:Inrasara

Phan Thành Khương

Inrasara là bút danh quen thuộc của một cây bút người Chăm. Tên thật của anh là Phú Trạm. Quê anh là làng Chăm Mĩ Nghiệp – nổi tiếng với nghề dệt thổ cẩm – thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Inrasara sinh năm 1957. Năm 2017 này, anh tròn 60 tuổi.

“Lễ tẩy trần tháng Tư – The purification festival in April” là một tuyển tập thơ và trường ca được Nhà xuất bản Văn Nghệ xuất bản năm 2005. Tuyển tập thơ gồm 26 bài thơ và 6 đoạn trường ca và được in với 2 thứ tiếng: Việt, Anh. Tác phẩm này đã mang về cho Inrasara 2 giải thưởng: Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và Giải thưởng Văn học Đông Nam Á (ASEAN).

Trong bài viết này, tôi chỉ điểm qua “Lời đề từ” và 5 bài thơ mà tôi yêu thích. Như thế, bài viết sẽ ngắn gọn hơn, ít làm mất thì giờ quí báu của người đọc hơn.

1. “Lời đề từ”

“Lời đề từ” ở đầu sách được in bằng 3 thứ tiếng: Chăm, Việt, Anh. “Lời đề từ” lại là một bài thơ ngắn, chỉ gồm 5 dòng. Có một thầy giáo dạy Văn đã thuộc lòng “Lời đề từ” này, đọc cho tôi nghe và bảo rằng: “tôi chẳng hiểu Inrasara nói gì cả”!

Theo tôi, có lẽ đây là một tuyên bố, tuyên ngôn về đổi mới chữ nghĩa, đổi mới văn chương, đổi mới tư duy, tư tưởng, tình cảm, … của nhà văn, của nghệ sĩ. Đó là một khát khao lớn của nhà thơ. Vì thế, anh đặt nó lên đầu tập sách. Việc anh cho 41 chữ cái Chăm, các chữ cái La tinh tắm gội cùng anh trên dòng sông Lu chỉ là một ẩn dụ, có thể có nhiều cách hiểu khác nhau. Tôi trích nguyên vẹn “Lời đề từ” dưới đây để người đọc rộng đường tìm hiểu:

… Buổi sáng – rất sảng khoái, tôi ra sông Lu

gánh theo đầu kia 41 inư akhar Cham KCT (1),

đầu này nhúm chữ cái Latinh ABC

nhận đầu chúng xuống nước bắt tắm gội từng đứa một

và tôi vui vẻ tắm với chúng.

Theo tôi biết, Inrasara sử dụng thành thạo tiếng Chăm, tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh (41 mẫu tự Chăm: tiếng Chăm, các mẫu tự La tinh: tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh).

2. “Đứa con của đất”

“Đứa con của đất” là một bài thơ dung dị, mộc mạc, đã khắc họa chân thực chân dung của tác giả qua các thời kì: sinh ra ở một miền đầy nắng và gió của vùng cực nam trung bộ, được nuôi dưỡng bằng tình mẹ, tình cha, tình ông, tình làng, lớn lên trong chiến tranh, tiếp xúc các trào lưu tư tưởng của thờ đại, chới với, bế tắc, gặp người yêu, quên mất những câu ca điệu hát của dân tộc mình, cảm thấy như đui mù, như bị vứt bỏ. Và, cuối cùng nhà thơ đã “ngóc đầu dậy”, “trườn lên”, “rướn mình”, tìm lại được chính mình và “nắng quê hương”. Tất cả như một sự phục sinh kì diệu:

… Tôi đánh rơi thế giới và tôi lạc mất tôi

Tôi lạc mất điệu đwa buk (2), câu ariya (3), bụi ớt

Trái tim đui

Tôi như người bị vứt

rớt giữa cánh rừng hoang trụi lá mùa xanh.

Rồi tôi ngóc đầu dậy và tôi trườn lên

rồi tôi rướn mình khỏi hố hang quá khứ

như kẻ bị thương mò tìm lối ra khỏi đống tan hoang thành phố

tôi tìm lại tôi

tìm thấy nắng quê hương!

Lại xanh trong tôi – dù rừng đã cháy

lại chảy trong tôi – dù sông đã chết

chợt hanh lại cát – chợt buồn lại ru

chợt duyên lại em – chợt hoang lại tháp

Giọng mẹ xa vời dỗ giấc thiên thu.

3. “Đêm Chăm”

“Đêm Chăm” tái hiện sinh động đêm hội Katê tưng bừng tại một làng quê Chăm. Bao người con của làng đi làm ăn xa, đã hối hả, lũ lượt quay về làng để cùng vui, cùng múa hát với tiếng trống ginăng, tiếng trống baranưng (4) thân yêu:

Với đêm nay rừng tháng Mười phát sáng

với đêm nay mắt họ bừng kiêu hãnh

tha hương bao nhiêu năm vẫn nhịp đề huề.

Baranưng vỗ dội bờ dĩ vãng

người nông dân buông mình vào mẫu số chung định phận

trong bập bềnh những thế kỉ ginăng.

Thơ Inrasara không hấp dẫn bởi ngôn từ đẽo gọt, óng mượt mà hấp dẫn bởi lời tự sự chân thực, bởi câu chữ mộc mạc, dung dị và mới lạ.

4. Không ai có thể hát thay chúng ta

Nhà thơ Inrasara

“Không ai có thể hát thay chúng ta”, theo tôi, là một thông điệp sâu sắc: không ai sống cuộc đời của ta, không ai chịu trách nhiệm về số phận của ta. Mỗi người phải sống cuộc đời mình, phải tự viết lịch sử của đời mình:

Không ai có thể hát thay chúng ta

nơi đây và lúc này

cả hôm sau có lẽ….

… Không có ai

tim dễ cháy hơn trái tim chúng ta

phía đau khổ.

5. Cha

Cũng với lối tự sự thủ thỉ, chân phác, Inrasara đã khắc họa chân dung người cha và biểu hiện mối tình cha – con sâu nặng, đằm thắm. Người cha sinh ra trong hoàn cảnh y tế, y học chưa phát triển, bệnh tật hoành hành hung tợn. Như một phép lạ, ông đã sống sót để làm người:

Xưa

dưới cái rây lịch sử khổng lồ

cha lọt sàng sống sót.

Lổm ngổm bò dậy làm người

một phép lạ.

Phải lo mưu sinh, làm nhà, làm ruộng, làm rẩy, … cha anh không có thời gian cho văn chương, triết học. Đa số những người đàn ông thuộc các thế hệ trước đều “phải” như thế! Chỉ có rất ít người được học hành đến nơi đến chốn và có đủ áo cơm để mơ mộng, suy tư.

Glang Anak, Pauh Catwai (5) phải vội vã

viết đã rất ngắn

như thể trối trăng.

Cha giấu mặt sau trang thơ

ngăn tiếng nấc.

Kẻ sống sót không có giờ cho văn chương

một khoản trời để thở.

Không mơ dựng tiếng tăm

một ngôi nhà cư trú.

Nhưng, đến thế hệ của anh, được sinh ra và lớn lên trong ngôi nhà đẫm mồ hôi và nước mắt của cha, anh đã lớn khôn, đã trưởng thành, đã có thì giờ để làm thơ, viết văn và luận bàn triết học.

Từ ngôi nhà này

con ra đời và khôn lớn

con biết nghĩ siêu hình / tập làm văn chương

con không quên cha / không quên mình

vẫn đủ giờ suy tư siêu hình, sáng tác văn chương

đủ giờ nghĩ kĩ, viết dài

dài mười lần trăm lần nghìn lần hơn

Pauh Catwai, Giang Anak.

Thơ hay là nghệ thuật của sự chân thành. Inrasara không hề nói thương, nói yêu mà ngập tràn yêu thương, mà thắm thiết tình phụ tử!

6. Chân dung nàng

“Chân dung nàng” mang dấu ấn thời cuộc: nông dân rời bỏ ruộng đồng, nương rẫy để vào các thành phố mưu sinh. Nam nhi trai tráng đã gặp vô vàn bất trắc huống gì các cô gái. Cô gái Chăm lại càng khó khăn hơn. Nhưng, vì sự sống của gia đình và của chính bản thân, người con gái Chăm vẫn phải rời xa ngôi nhà thân yêu, rời xa cha mẹ, xóm làng. Cô gái phải ra đi, phải vào phố như một sự ép buộc:

Em bị nhổ khỏi plây (6)

bị văng vào phố.

Em không có dây chuyền / không có quần jeans

mang linh hồn ngọn đồi

em lạc vào phố lạ.

Nhiều đồng ruộng tốt tươi đã bị san lấp để làm nhà máy này, xí nghiệp nọ, sân gôn kia, … và vì thế người nông dân đã phải bỏ làng vào phố một cách bất đắc dĩ. Họ gặp phải vô vàn gian khó, trùng điệp nhọc nhằn nơi đất khách quê người. Tất cả đều xa lạ với cô gái Chăm:

Em giặt giũ trong căn gác lạ

em thợ phụ trong xưởng may lạ

em hoảng hốt trong con hẻm lạ.

Mang linh hồn ruộng đồng

em rụng vào đêm lạ.

Năm tháng đi qua, cô gái Chăm có lần về thăm làng đôi hôm, nửa ngày rồi lại quày quã vào phố, tình yêu cũng phải quên đi, cô gái chào từ biệt xóm làng, chào từ biệt người yêu – người con trai – nay đã “vợ con đủ đầy”!

Nàng vẫn đi về mênh mông hướng phố

vẫy anh em đang mắt nhìn mở cửa

vẫy người yêu đã vợ con đủ đầy

vẫy bà con mãi liêu xiêu bão lũ.

Ta chúc cho cô gái Chăm, các cô gái nói chung, phải bỏ làng vào phố, được bình an, gặp nhiều may mắn và thành công!

Và, vui biết bao, cuối cùng, cô gái Chăm đã về lại làng, về với đồng ruộng, về với những ngọn đồi quen thuộc:

Hình như hồn buồn nàng hé nắng

sẵn sàng mọc trái cây ban mai.

Bỗng một hôm làng có em trở về

vỡ linh hồn ngọn đồi ruộng đồng

như một dòng khởi đầu in đậm.

Tóm lại, ta thấy rõ thơ Inrasara có một nét riêng độc đáo. Đó là sự mộc mạc, dung dị của ngôn từ, cái mới, cái lạ trong diễn đạt, sự chân thành, kín đáo trong biểu hiện tình cảm, cảm xúc. Có lẽ vì thế, thơ Inrasara dễ đi vào lòng người.

Phan Thành Khương

Ninh Thuận, 15-11-2017

(1) 41 inư akhar Cham KCT = 41 mẫu tự tiếng Chăm.

(2) đwa buk = vũ điệu truyền thống của người Chăm.

(3) ariya = thi ca

(4) ginăng, paranưng = 2 loại trống của người Chăm.

(5) Glang Anak, Pauh Catwai = các trường ca cổ của dân tộc Chăm ở đầu thế kỉ XIX.

Nguồn: Tác giả gửi
VIRGIL GHEORGHIU

Shoptinhyeu . vn thuoc115 . com bán các loại thuốc chống xuất tinh sớm, yếu sinh lý, thuốc cường dương tốt nhất thị trường

Thuốc viagra mua ở đâu bán ở đâu giá bao nhiêu rẻ nhất ?
Bạn liên hệ theo số điện thoại đường dây nóng bạn nhé
Nhà phân phối độc quyền
Tại TP HCM : 90/12 Cao Thắng, phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại 0928080808
Đại lý cấp 1 tại Hà Nội, miền Bắc : 243 Định Công Thượng, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại : 0936700000
Đại lý số 2 : 13 B10 mặt phố Phạm Ngọc Thạch, Quận Đống Đa, TP Hà Nội (nằm giữa ngã ba Phạm Ngọc Thạch với Lương Đình Của và Xã Đàn)

website :
shoptinhyeu . vn
thuoc115 . com
giaosutinhyeu . com

xem phim hài 18+

ARCHIVE FOR THE ‘NGUYỄN KHÔI’ CATEGORY Chùm tứ tuyệt 24 năm xưa Posted: 29/11/2017 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Yêu

Vì nỗi thương nhau…chẳng nói gì

Lặng im giữa lúc phải chia ly

Ừ thì như gió trong cơn bão

Nổi sóng lòng riêng lệ đẫm mi.

Đau

Người tưởng vô tình…chẳng thấy đau

Lặng đi…thôi biệt mối tình đầu

Trớ trêu ngày trở về phố cũ

Trăng gió hương tình lại quyến nhau.

(more…)

Gửi Yên Bái Posted: 10/07/2017 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Tặng Nhà văn Thế Phong – Sài Gòn

Tượng đài Nguyện Thái Học, Yên Bái

Lời thưa: Bố tôi bảo “Yên Bái là đất dữ…” nên 1945 ông đưa gia đình về xuôi… Nguyễn Khôi tôi sinh ra ở thị xã Yên Bái (26/12/1938), nay 80 tuổi (ta) ngẫm thấy lời Bố tôi xưa quả là rất nghiệm, có đôi vần cảm tác, viết cách nay đã 5 năm mà vẫn như những lời “dự báo” về cái vùng Đất Dữ hôm nay, xin được chia sẻ cùng các Bạn thơ:

Nơi mẹ sinh tôi đầu nguồn nước lũ

Đi bặt tăm chẳng có ngày về…

Ơi Yên Bái, người đi không ngoái lại

bỏ lại vầng trăng, câu hát lưng đèo

Về Hà Nội giữa dòng đời ngang trái

đi tìm hoài một dáng thương yêu.

Đâu hương Quế, hương Hồi chiều xanh ngát

giữa phố phường chật chội sặc hơi Tiền

giữa chen chúc lòng ngắc ngư câu hát

Thèm một khoảng rừng ở góc Công viên…

(more…)

Quan Họ ơi, cả họ làm quan! Posted: 02/06/2017 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Quan Họ

Bùi Xuân Phái

Các Báo đưa tin “nguyên Bí thư tỉnh ủy Bắc Ninh xây nhà to nhất Thành phố Bắc Ninh…đương kim Bí thư tỉnh ủy thì cả Họ làm Quan…” NK về quê, nghe dân chúng đàm tiếu, bức xúc có đôi vần :

Quan Họ ơi,

Ôi cả làng Quan Họ

niềm tự hào cất cánh

tới 5 châu…

Quan Họ ơi,

nay cả Họ làm Quan

sự nhục nhã

tham lam

tạc vào Thời Đại   (more…)

Thơ về “lũ chè chai/ đồng nát” | Valentine với bạn tình cũ Posted: 14/02/2017 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Thơ về “lũ chè chai/ đồng nát” ——-

“kẻ ăn mày chờ xin bố thí

Trước uy nghi Tu viện Chúa Trời ”

M. Lermontov (1814-1841)

“Lũ đồng nát…” chờ xin “đồ thải”

Trước cao tầng, biệt thự/ nhà hàng

Mong kiếm chút “tiền” về trang trải

cho chồng con/ bố mẹ ở Làng.

Chúng mong được Tivi (bầu) cũ,

Bộ Xa Lông đệm rách/ ghế sờn

Cái quạt bàn chạy kêu cọc cạch

Váy/ áo lông lạc mốt còn bền…

(more…)

“Tự diến biến” đi – Văn Nghệ ta ơi! Posted: 18/01/2017 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Lời dẫn: Theo “trannhuong.com ” thì Nhà thơ Hữu Thỉnh & BCH Hội nhà văn ta đã quyết định “từ sau tết Đinh Dậu- 2017 Hội sẽ không mua báo Văn Nghệ để phát không cho 1000 Hội viên nữa…” Báo muốn tồn tại thì phải “tự sống” bằng kinh doanh văn thơ của mình…NK rất vui, có đôi vần chia sẻ:

Đã bao năm Nhà văn ta sống đời “bao cấp”

Tiền thuế của dân nuôi “mập” các Nhà

Viết “minh họa” chẳng ma nào đọc

Báo ế, nợ nần, “hội nhập”… chào thua !

(more…)

Chùm tứ tuyệt – 1 Giêng 2017 Posted: 09/01/2017 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Thi gia thanh cảnh tại tân xuân  (1)

thơ Dương Cự Nguyên (755-832)

Mùa Xuân và chim én

Bùi Xuân Việt

1.

Ngồi xuống thềm nhà nghe chim hót

Sân trước cành Mai điểm trắng rồi

Mới hay xuân đến không báo trước

Hút hồn gió bắc hạt sương rơi…

2.

Khí hậu đổi thay Xuân đến sớm

Không cảnh đông tàn…nắng đơm hoa

Bắp cải : xe thồ ra chợ bán

Gà vịt được mùa rộn đồng xa…

(more…)

Vui buồn chung cư Posted: 04/11/2016 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Tặng Lê Vy – Sài Gòn

Muốn sớm là Người Thành Phố

thì lên mà ở “Chung Cư”,

Sẽ nếm đủ điều sung sướng

Ảo huyền như mấy Nhà Thơ

treo mình trên các “tổ kiến”

ngang trời nghe gió lắc lư…

(more…)

Gửi Trung Hoa Posted: 20/07/2016 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

“Cổn cổn Trường Giang đông thệ thủy

Lãng hoa đào tận anh hùng “…

trích Từ của Dương Thận (1)

“Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông

Bọt sóng xóa dấu anh hùng…”

Chao, Vạn lý Trường thành còn đó

sừng sững nỗi sợ Hung Nô,  (more…)

Loa phường Posted: 04/06/2016 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Tặng Vũ Ngọc Tiến & Lê Mai

Chiều, tan tầm

là giờ Loa Phường mở :

-Vài thông tin Thời Sự

rồi Ca Nhạc hết cỡ :

hết “Trường Sơn Đông/ Trường Sơn Tây”

lại “Bác đang cùng chúng cháu hành quân”…

vang vang ngõ phố…

Ôi, khổ quá

qua mấy cuộc chiến tranh

nghe

Tuyên Truyền

đã đủ !  (more…)

5 năm nữa Posted: 17/05/2016 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Cảm tác nhân cái chết của Nhà văn Phan Lạc Phúc (người Sơn Tây) thọ 88 tuổi, người đã từng đi tù ở Sơn La vào thời gian tác giả đang công tác ở Sơn La 21 năm (1963-1984). Tặng em Nguyễn Đăng Khôi – Hoa Kỳ.

Nhà văn Phan Lạc Phúc (1928-2016)

5 năm nữa: thế hệ mình “chấm hết”

Mọi hận thù Ý Thức Hệ cũng “tiêu”

Thôi ân oán thời “Nồi da xáo thịt”

Còn sót ai: ngồi vui thả Sáo diều…

(more…)

Xóm cỏ Posted: 15/03/2016 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Tặng Đặng Xuân Xuyến

“Khóm tre già đợi gió đứng bên ao”

(Anh Thơ)

Mơ… được bỏ Cao Tầng về Xóm Cỏ

Ngồi bờ đê hít thở với sông dài

Ngắm dáng con đò trước cầu cao ngạo nghễ

Bãi ngô non thấp thoáng bóng ai…

(more…)

Lên Sơn Tây Posted: 23/12/2015 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Tặng: Phan văn Đậu

“Rượu rót ra rồi ai uống đây

Ai người đăm đắm Mắt Sơn Tây ? ”

— Thơ bạn —

Đến Giáng Sinh buồn xa phố cũ

Lòng xuân phơi phới tới Sơn Tây

Đặt một dấu giày vào Thành cổ

thả hồn bát ngát với trời mây…  (more…)

Hoa sữa bâng khuâng Posted: 08/10/2015 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Tặng Lê Vy

“Đêm Hà Nội đã nhạt mùi hoa Sữa

Tưởng tóc ai phảng phất hương rừng”

Tối qua báo “gió mùa đông bắc”

Sớm nay chùm hoa Sữa nở tung

Ơi cái màu trắng xanh lấp lóa

Ơi cái mùi Hà Nội bâng khuâng…

(more…)

Ngôi nhà cũ Posted: 07/07/2015 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Tặng những ai tha hương

Sau bão về thăm ngôi nhà cũ

Cây Xoan bật gốc, Cau ngã trước nhà

May vẫn nguyên ngôi nhà thờ Tổ

Trời còn thương cho hương khói ông cha.

(more…)

Đói sách Posted: 24/05/2015 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

(Tặng : Ngộ Không)

“Vạn khoảnh lương điền

Thiên kim dụng tử

bất như nhất Kinh ” (1)

– Gia ngữ

Đói Sách,

Mình mò lên Nguyễn Xí (2)

Sách chui, sách lậu bán vỉa hè

Bạn đùa :

-“Sách ai xuất bản, Người ấy đọc

Ai đứng giảng Đạo, Người ấy nghe” !  (more…)

Qua đường Tràng Thi cảm tác Posted: 17/05/2015 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Gửi: Những kẻ chặt cây

Sớm nay lên “Việt Đức”

thăm bạn nằm Nhà thương,

xe như bay trên đường

dưới vòm cây xanh mát…

Chim hót như chào đón,

vợ sau lưng thầm thì :

-may quá, đường Tràng Thi

chúng nó chưa chặt đến…  (more…)

Xuân Tiêu Tương | Những cô nàng Quan Họ | Ba Vì – tháng 9 mùa thu Posted: 01/02/2015 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Quan Họ

Bùi Xuân Phái

Xuân Tiêu Tương Tháng giêng hai gọi người Quan Họ

Xuân hẹn dòng Tiêu Tương

Xanh xanh màu xanh Quan Họ

Mùi nhớ

Trắng toát yếm Trúc Bâu

Theo bàn tay của mây

Lần xuống vạt đồi Lim

Bầm tím nụ hoa Bí Đỏ

Trăng non

Hai mảnh khép hờ  (more…)

Hoài niệm chiều 30/12 Posted: 31/12/2014 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Tặng: Thúy Toàn

“Dân tộc có Thi nhân

là thoát thời Bộ lạc

Quen sống theo bầy đàn

cùng ca một điệu hát”

15h chiều 30 tháng chạp

tại Thư viện Thủ đô

những bạn thơ từng đi Liên Xô

hội ngộ

đón Tuyển thơ “Nối hai đầu Thế kỷ”

155 Thi sĩ / 600 bài thơ

Hoài niệm nước “Nga – Xô Viết”

(đã sụp đổ)

như quê hương thứ hai

đi suốt chiều dài

60 năm lịch sử !

(more…)

Thư Hà Nội Posted: 05/12/2014 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Gửi Lê Vy – Sài Gòn

Hà Nội đang ngọt ngào vào Rét

Thị trường nhộn nhịp, giá không tăng

Phở Bò 25 ngàn 1 bát

Ly Café vẫn 15 ngàn…

Bọn trẻ hung hăng đi Mường Lát (1)

Đem “hàng từ thiện” cứu Bần dân

– Thương lũ em phong phanh chân đất

Ghét bọn Thằng Truyền (2) chỉ lo thân ? !

(more…)

35 năm, còn nhớ? Posted: 16/02/2014 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Hoa Mộc Miên nhuốm máu

“Cửa Hữu Nghị” hận thù

Ôi, Anh em – Đồng chí

“Cảnh giác” đến thiên thu .

Quên sao tháng 1-79

Tàu Mao xâm lược nước ta

Đặng “cho Việt Nam bài học”

“Sờ mông tiểu Hổ”…a ha…

(more…)

Xuân nhạt Posted: 07/02/2014 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Tặng Vũ Quang Tần

“Mã đề Dương cước anh hùng tận

Thân đậu niên lai kiến thái bình ”

(Sấm Trạng Trình)

Giáp Ngọ xuân đến sớm

Tết nghèo chừng kém vui

Phố xá người loáng thoáng

Về nhà quê ta thôi …

Tới đầu ngõ bồi hồi

Bờ tre chim ríu rít

Cây Nêu vút lên trời

Đã ngửi thấy “mùi Tết”

(more…)

Giáp Tết về quê viếng mộ mẹ cha Posted: 22/01/2014 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Tặng: BNN & LXQ

“Trĩ tử thiên y vấn

Quy gia hà thái trì?

Cộng thùy tranh tuế nguyệt

Doanh đắc mấn như ti. ”

thơ Đỗ Mục (1)

Cả năm bươn trải nơi đất khách

Tết về Làng viếng mộ mẹ cha

Được đi chân đất trên bờ cỏ

Cho thấm hồn quê tới thịt da,

(more…)

Thơ về xứ Huế Posted: 14/01/2014 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Tặng Trần Kiêm Đoàn & Kiêm Thêm

Sông An Cựu Sông An Cựu chảy giữa lòng Xứ Huế

Mưa thì trong, nắng đục mát hàng Me

Sông thì nhỏ mà tình hơn sóng bể

Dội vào lòng Người Huế ở xa quê.

(more…)

Lời tống biệt Posted: 27/12/2013 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

(Họa thơ Văn Quang)

Tặng: Thế Phong

“Tống Biệt Hành” xưa chẳng còn ai

Nay “Lời tiễn biệt” suốt đêm dài

Tống tiễn hôm nay là hủy diệt

Tình đời bạc bẽo thế cả thôi.

Mắt đã mờ đau, cực đã thừa

Tình yêu đã chết nhớ chi xưa

70 năm trải mùi dâu bể

Còn gì đâu nữa để đón đưa?

(more…)

Gửi Tuyên Quang Posted: 19/12/2013 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Tặng nhà thơ Triệu Lam Châu

“Chè Thái, gái Tuyên ” (Tục ngữ)

Ừ có hẹn cũng chưa về Tuyên được

Bếp lửa nhen ai đó sưởi riêng lòng

Đêm Hà Nội đã nhạt mùi hoa Sữa

Tưởng tóc ai phảng phất hương rừng

(more…)

Nhớ nhà thơ Nguyễn Bính Posted: 05/12/2013 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Tặng: LXQ

Nhà thơ Nguyễn Bính (1918–1966)

Chàng Thần đồng, Trời bắt làm Thi sĩ

đầy từ quê ra tỉnh sống cô đơn

Đời lăn lóc cùng Thi đàn – Ca kỹ

từ Thành Nam tới mãi Hà Tiên…

Tình lưu luyến “giậu mồng tơi”- Bướm trắng

Cô láng giềng vò võ quay tơ

mộng mơ có một ngày đỗ Trạng

Tỉnh ra vẫn thân phận Lái đò.

(more…)

Váy Đình Bảng Posted: 29/11/2013 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Tranh Bùi Xuân Phái

“Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng ”

(thơ Hoàng Cầm)

Trời Kinh Bắc tháng ba Hoa Gạo đỏ

Theo “liền em” đi trẩy hội Đền Đô

Váy Đình Bảng thướt tha đen rờ rỡ

Gót chân son khấp khởi bước thẹn thò

Như đã hẹn chờ em bên Ao Rối

Sang Cầu Kiều hát đối “Sắp qua cầu”

Lũ chim Sáo líu lo bên rặng Ruối

Trêu cô Nàng váy mới má đỏ au

(more…)

Xô nát thơ Posted: 02/10/2013 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Tặng nhà thơ Trần Quốc Thực

Lời dẫn: Bài thơ viết cách nay 13 năm, lúc Trần Quốc Thực còn sống, vừa đến chơi, tặng thơ cho Nguyễn Khôi (anh quê Hà Nam, là một Nhà thơ đích thực, có số phận hẩm hiu, đau buồn) nay xin đăng lần đầu để chia sẻ cùng các bạn thơ, cũng là chút tình tưởng nhớ Người bạn thơ đã khuất (Bài thơ Nguyễn Khôi có mượn một số ý thơ của Trần Quốc Thực để vận vào thân phận của Thi sĩ)

55 tuổi đầu lần tìm về nơi mẹ

Thiêm thiếp âm dương đỡ khuyết mảnh tâm sầu

Về đến Vực Bầu bụng nhớ sang nhà Chị

Lối ngõ mịt mờ

giấc trưa ở đâu ?

(more…)

Cái lạnh đầu mùa | Qua cầu Long Biên cảm tác Posted: 27/09/2013 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Cái lạnh đầu mùa Tặng nhà văn Hoàng Quốc Hải

“Sướng” cái lạnh đầu mùa

Ở giữa lòng Hà Nội

– Đạp xe ra chợ Mơ

Ăn Bánh cuốn “Cà cuống”.

Đã qua mùa nắng nướng

Đã ngớt bão – mưa dầm ?

Hứng cái “hanh” vàng óng

trên tóc em bềnh bồng…

(more…)

Về Hải Phòng Posted: 18/09/2013 in Nguyễn Khôi , Thơ

Nguyễn Khôi

Rời Cát Bà, chào biển xanh lấp lánh

Theo nắng thu vàng tới Đồ Sơn

– Cô Tám Bính không qua Cầu Bính

Năm Sài Gòn chẳng ở Sài Gòn.

(more…)
VIRGIL GHEORGHIU

Shoptinhyeu . vn thuoc115 . com bán các loại thuốc chống xuất tinh sớm, yếu sinh lý, thuốc cường dương tốt nhất thị trường

Thuốc viagra mua ở đâu bán ở đâu giá bao nhiêu rẻ nhất ?
Bạn liên hệ theo số điện thoại đường dây nóng bạn nhé
Nhà phân phối độc quyền
Tại TP HCM : 90/12 Cao Thắng, phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại 0928080808
Đại lý cấp 1 tại Hà Nội, miền Bắc : 243 Định Công Thượng, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại : 0936700000
Đại lý số 2 : 13 B10 mặt phố Phạm Ngọc Thạch, Quận Đống Đa, TP Hà Nội (nằm giữa ngã ba Phạm Ngọc Thạch với Lương Đình Của và Xã Đàn)

website :
shoptinhyeu . vn
thuoc115 . com
giaosutinhyeu . com

thêm một bài lục bát đáng nhớ : ‘VỚT CÂU LỤC BÁT/ thơ NHƯ THƯƠNG — http://t-van.net/ xem phim hài 18+

 VỚT CÂU LỤC BÁT/   thơ  NHƯ THƯƠNG

 C. T.Vấn 2017

                                            thêm một bài lục bát đáng nhớ:

                                    ‘VỚT CÂU LỤC BÁT’

                                              thơ   Như Thương

             

 Nghe như rưng rức cõi lòng

Vớt câu lục bát giữa dòng sông thôi

Lỡ mai bên chuyện khúc nôi

Sắc, huyền, hỏi ngã chìm trôi phương nào

Lỡ hồn chạm ngõ ca dao

Chữ thương chữ nhớ làm sao đợi chờ

Lỡ con sông lở đôi bờ

Bên bồi chẳng thấy để thơ vụng về

Lỡ câu vọng cổ xuống “xề”

Bỏ quên nhịp gõ hồn quê trĩu buồn

Lỡ rừng thôi rụng lá buông

L6n non lạc dấu cội nguồn Âu Cơ

Lỡ trùng dương lặng vỗ bờ

Cánh chim viễn xứ thẫn thờ phương xa

Lỡ mai núi vỡ trăng tà

Nghìn năm chinh phụ nhạt nhòa trên non

Lỡ mùa lúa ngóng nước “son”

Đâu phù sa đỏ chẳng còn về theo

Thì thôi vận nước gieo neo

Nghẹn ngào còn chữ như bèo tím trôi.

NHƯ THƯƠNG

http://t-van.net/

————————————–

trích từ blog T.Vấn & Bạn Hữu

————————————–

               

                                                   

                                     
VIRGIL GHEORGHIU

Shoptinhyeu . vn thuoc115 . com bán các loại thuốc chống xuất tinh sớm, yếu sinh lý, thuốc cường dương tốt nhất thị trường

Thuốc viagra mua ở đâu bán ở đâu giá bao nhiêu rẻ nhất ?
Bạn liên hệ theo số điện thoại đường dây nóng bạn nhé
Nhà phân phối độc quyền
Tại TP HCM : 90/12 Cao Thắng, phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại 0928080808
Đại lý cấp 1 tại Hà Nội, miền Bắc : 243 Định Công Thượng, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại : 0936700000
Đại lý số 2 : 13 B10 mặt phố Phạm Ngọc Thạch, Quận Đống Đa, TP Hà Nội (nằm giữa ngã ba Phạm Ngọc Thạch với Lương Đình Của và Xã Đàn)

website :
shoptinhyeu . vn
thuoc115 . com
giaosutinhyeu . com

xem phim hài 18+

Vũ Ngọc Phan Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Nhà văn Vũ Ngọc Phan

Vũ Ngọc Phan  (1902 -1987 ) là nhà văn , nhà nghiên cứu văn học hiện đại  và văn học dân gian  Việt Nam . Trong những năm đầu cầm bút, ông còn có bút danh là Chỉ Qua Thị .

Mục lục   [ẩn ] 

1 Tiểu sử và sự nghiệp 2 Tác phẩm 2.1 Ký sự, nghiên cứu 2.2 Dịch, phóng tác 3 Sự nghiệp văn chương 4 Gia đình 5 Sách tham khảo 6 Chú thích

Tiểu sử và sự nghiệp [ sửa  |  sửa mã nguồn ] Vũ Ngọc Phan  sinh ngày 8 tháng 9  năm 1902  tại Hà Nội . Nguyên quán là làng Đông Lão, xã Đông Cửu, huyện Gia Lương , tỉnh Bắc Ninh  [1] , nay thuộc Hà Nội .

Xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo, thuở nhỏ, ông theo cha đến Hưng Yên  và theo học chữ Hán . Từ năm 1920  đến năm 1929 , Vũ Ngọc Phan chuyển sang học tiếng Pháp  tại Hà Nội , đỗ tú tài  Pháp ở tuổi 27.

Song với năng khiếu văn chương và tư tưởng tự do, ông không thích gò mình vào cuộc sống công chức nên đã chọn nghề dạy học tư, viết báo, viết văn và dịch sách.

Từ năm 1929  đến nửa đầu những năm 1940 , Vũ Ngọc Phan cộng tác với nhiều tờ báo, tạp chí đương thời như các tờ: Pháp-Việt, Văn học, Nhật Tân, Phổ thông bán nguyệt san, Trung Bắc tân văn, Sông Hương …. Ngoài ra, ông còn từng là Chủ bút tờ Tuần báo Hà Nội tân văn , và là người chủ trương lập Nhà xuất bản Hà Nội.

Vũ Ngọc Phan thời trẻ

Năm 1945 , ông tham gia Tổng khởi nghĩa. Cách mạng tháng Tám  (1945 ) thành công, Vũ Ngọc Phan cộng tác với tạp chí Tiên phong  của Hội Văn hóa cứu quốc. Lần lượt, ông trải qua các chức vụ sau:

-Phó chủ tịch Đoàn văn nghệ Bắc bộ Việt Nam (tháng 12  năm 1945 ). -Tổng thư ký Ủy ban vận động Hội nghị Văn hóa toàn quốc (tháng 11  năm 1946 ). -Ủy viên thường trực Đoàn văn hóa kháng chiến liên khu IV (1947 -1951 ). -Ủy viên Ban nghiên cứu Văn Sử Địa (1951 -1953 ). Sau kháng chiến chống Pháp  (1946 -1954 ), Vũ Ngọc Phan tiếp tục công tác ở Ban Văn Sử Địa. Từ năm 1957 , Vũ Ngọc Phan trở thành hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam .

Năm 1959 , khi Tổ văn học của Ban nghiên cứu Văn Sử Địa tách ra thành lập Viện Văn học, Vũ Ngọc Phan về công tác tại Viện, trở thành tổ trưởng tổ văn học dân gian (nay là phòng văn học dân gian và phòng văn học các dân tộc ít người) của Viện Văn học. Sau đó, Vũ Ngọc Phan được bầu làm Tổng thư ký, phụ trách cơ quan Hội Văn nghệ dân gian tại Đại hội Văn nghệ dân gian lần thứ nhất năm 1966 .

Vũ Ngọc Phan mất ngày 14 tháng 6  năm 1987  tại Hà Nội , hưởng thọ 85 tuổi.

Tác phẩm [ sửa  |  sửa mã nguồn ] Theo thống kê chưa đầy đủ, Vũ Ngọc Phan đã để lại các tác phẩm sau:

Ký sự, nghiên cứu [ sửa  |  sửa mã nguồn ] Trên đường nghệ thuật  (tiểu luận, 1940). Nhìn sang láng giềng  (ký sự, 1941). Thi sĩ Trung Nam  (thi thoại, 1942). Nhà văn hiện đại  (4 tập, 1942-1945). Con đường mới của thanh niên  (nghiên cứu, 1944). Chuyện Hà Nội  (bút ký, 1944). Những trận đánh Pháp  (ký sự lịch sử, 2 tập, 1946). Sống ở muôn loài  (biên soạn, 1946). Truyện cổ tích Việt Nam  (sưu tầm, tuyển chọn, 1955). Từ lần in thứ ba (1957) đổi tên thành Truyện cổ Việt Nam. Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam  (sưu tầm, nghiên cứu, 2 tập, 1956), được tái bản nhiều lần. Những năm tháng ấy  (hồi ký, 1987). Dịch, phóng tác [ sửa  |  sửa mã nguồn ] Lâu đài họ Hạ  (dịch tiểu thuyết của Hốp-man [Ernst Theodor Hoffmann, Đức]) Chọn bạn tình  (dịch tiểu thuyết của Hốp-man) Châu đảo  (dịch tiểu thuyết của Stê-ven-xơn) An-na Kha-lệ-ninh  (dịch tiểu thuyết An-na Ka-rê-ni-na của L. Tôn-xtôi [Lev Nikolayevich Tolstoy, Nga]) Y-vân-hoa  (dịch tiểu thuyết Ai-van-hô của Oan-tơ-Xcốt [Derek Wallcott, Anh) Tiểu nhiên và Mị Cơ  (dịch tiểu thuyết Trix-tan và Idơ theo phóng tác của Giô-dép Bê-đi-ê). Mưu đàn bà  (phóng tác truyện Ả rập theo bản dịch của Mac-rus), Tấm gương nhỏ  (dịch truyện dân gian Nhật Bản và Ả Rập). Người Xô viết chúng tôi  (dịch tác phẩm của Bô-rít Pô-lê-vôi). Ngoài ra, ông còn soạn chung bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam  (Quyển I, 1957; Quyển V, 1960), làm Chủ biên bộ Truyện cổ dân gian các dân tộc Việt Nam  (1961) và bộ Hợp tuyển văn học Việt Nam (1972).

Năm 2010 , Nhà xuất bản Văn học cho in Vũ Ngọc Phan toàn tập , gồm 5 tập (không bao gồm truyện dịch và phóng tác).

Sự nghiệp văn chương [ sửa  |  sửa mã nguồn ] Trước 1945 , Vũ Ngọc Phan được nhiều nhiều người biết tiếng qua bộ sách Nhà văn hiện đại . Trong đó, nhiều nhận định của ông cho tới nay vẫn còn giá trị. Sau đấy, đáng chú ý hơn cả là cuốn Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam . Sách có giá trị nhiều mặt, được tái bản nhiều lần.

Ghi nhận công lao và sự nghiệp của Vũ Ngọc Phan, năm 1996 , ông được xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh  đợt 1 cho những cụm công trình về văn nghệ dân gian [2] .

Gia đình [ sửa  |  sửa mã nguồn ] Người bạn đời của Vũ Ngọc Phan là nhà thơ Hằng Phương , con gái nhà văn Sở Cuồng Lê Dư . Ông bà cũng là thân sinh của nhà khoa học nông nghiệp, Giáo sư viện sĩ Vũ Tuyên Hoàng , họa sĩ Vũ Giáng Hương , GS.TS Nông nghiệp Vũ Triệu Mân.

Sách tham khảo [ sửa  |  sửa mã nguồn ] Phần “Tiểu sử Vũ Ngọc Phan” in đầu bộ sách Vũ Ngọc Phan toàn tập . Nhà xuất bản Văn học, 2010. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Văn học, 50 năm xây dựng và phát triển . Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội , 2003. trang 98. Trần Hữu Tá, mục từ “Vũ Ngọc Phan” in trong Từ điển Văn học  (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004. Chú thích [ sửa  |  sửa mã nguồn ] ^  Theo Vũ Ngọc Phan toàn tập , tr.9. ^  Theo Trần Hữu Tá, tr. 2029.

Thể loại : Sinh 1902 Mất 1887 Nhà văn Việt Nam Giải thưởng Hồ Chí Minh Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam Nhà nghiên cứu văn học Việt Nam Người Hà Nội Mất 1987 Viện Văn học (Việt Nam)

Trình đơn chuyển hướng Chưa đăng nhập Thảo luận cho địa chỉ IP này Đóng góp Mở tài khoản Đăng nhập Viết nháp

Bài viết Thảo luận

Đọc Sửa đổi Sửa mã nguồn Xem lịch sử

Khác

Tìm kiếm

Trang Chính Bài viết chọn lọc Tin tức Bài viết ngẫu nhiên Thay đổi gần đây Phản hồi lỗi Quyên góp

Tương tác Hướng dẫn Giới thiệu Wikipedia Cộng đồng Thảo luận chung Giúp sử dụng Liên lạc

Gõ tiếng Việt Trợ giúp  Tự động  [F9]  Telex  (?)  VNI  (?)  VIQR  (?)  VIQR*  Tắt  [F12]  Bỏ dấu kiểu cũ  [F7]  Đúng chính tả  [F8]

Công cụ Các liên kết đến đây Thay đổi liên quan Các trang đặc biệt Liên kết thường trực Thông tin trang Khoản mục Wikidata Trích dẫn trang này

In/xuất ra Tạo một quyển sách Tải về dưới dạng PDF Bản để in ra

Ngôn ngữ khác English Français Sửa liên kết

Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 23:48 ngày 4 tháng 3 năm 2017.
VIRGIL GHEORGHIU

Shoptinhyeu . vn thuoc115 . com bán các loại thuốc chống xuất tinh sớm, yếu sinh lý, thuốc cường dương tốt nhất thị trường

Thuốc viagra mua ở đâu bán ở đâu giá bao nhiêu rẻ nhất ?
Bạn liên hệ theo số điện thoại đường dây nóng bạn nhé
Nhà phân phối độc quyền
Tại TP HCM : 90/12 Cao Thắng, phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại 0928080808
Đại lý cấp 1 tại Hà Nội, miền Bắc : 243 Định Công Thượng, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại : 0936700000
Đại lý số 2 : 13 B10 mặt phố Phạm Ngọc Thạch, Quận Đống Đa, TP Hà Nội (nằm giữa ngã ba Phạm Ngọc Thạch với Lương Đình Của và Xã Đàn)

website :
shoptinhyeu . vn
thuoc115 . com
giaosutinhyeu . com

Cứu tôi

Thơ: Nguyễn Thanh
Ảnh copy
CỨU TÔI
Chuột ơi chuột hỡi chuột à
Sao mày ác thế,chuột à chuột ơi !
Tiền tao bòn rọt lâu rồi
Để mà cưới vợ,thôi rồi còn đâu.
Tiền tao lao động bấy lâu
Mới thu vén được chứ đâu dễ gì
Nay chuẩn bị làm lễ nghi
Mang tiền ra đếm,ôi thì chuột xơi
Tiền tao đổ bao mồ hôi
Nay thành giấy nát ,lấy gì sắm đây
Trầu cau,mâm lễ đặt rồi
Cả thảy bảy quả,cả xôi lẫn gà
Thế này thì chết bỏ pà
Nhìn đống tiền nát ,giọt ngà tuôn rơi
Lòng tao đang rối tơi bời
Có ai cứu vớt đời tôi không nào ?
Huhu huhu huhu……

xem phim hài 18+

Nếu như những ánh sao băng có tạt ngang bầu trời và để lại chút dấu thời gian….

Saturday, 2 May 2015 Vũ Ngọc Phan (1902 – 1987)

http://phannguyenartist.blogspot.com/

Vũ Ngọc Phan

(1902 – 1987)

Hưởng thọ 85 tuổi

Nhà văn, Nhà nghiên cứu văn học

Vũ Ngọc Phan (1902-1987) là nhà văn, nhà nghiên cứu văn học hiện đại và văn học dân gian Việt Nam. Trong những năm đầu cầm bút, ông còn có bút danh là Chỉ Qua Thị.

Tiểu sử và sự nghiệp

Vũ Ngọc Phan sinh ngày 8 tháng 9 năm 1902 tại Hà Nội. Nguyên quán là làng Đông Lão, xã Đông Cửu, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc Hà Nội.

Xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo, thuở nhỏ, ông theo cha đến Hưng Yên và theo học chữ Hán. Từ năm 1920 đến năm 1929, Vũ Ngọc Phan chuyển sang học tiếng Pháp tại Hà Nội, đỗ tú tài Pháp ở tuổi 27.

Song với năng khiếu văn chương và tư tưởng tự do, ông không thích gò mình vào cuộc sống công chức nên đã chọn nghề dạy học tư, viết báo, viết văn và dịch sách.

Từ năm 1929 đến nửa đầu những năm 1940, Vũ Ngọc Phan cộng tác với nhiều tờ báo, tạp chí đương thời như các tờ: Pháp-Việt, Văn học, Nhật Tân, Phổ thông bán nguyệt san, Trung Bắc tân văn, Sông Hương…. Ngoài ra, ông còn từng là Chủ bút tờ Tuần báo Hà Nội tân văn, và là người chủ trương lập Nhà xuất bản Hà Nội.

Năm 1945, ông tham gia Tổng khởi nghĩa. Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, Vũ Ngọc Phan cộng tác với tạp chí Tiên phong của Hội Văn hóa cứu quốc. Lần lượt, ông trải qua các chức vụ sau:-Phó chủ tịch Đoàn văn nghệ Bắc bộ Việt Nam (tháng 12 năm 1945).-Tổng thư ký Ủy ban vận động Hội nghị Văn hóa toàn quốc (tháng 11 năm 1946).-Ủy viên thường trực Đoàn văn hóa kháng chiến liên khu IV (1947-1951).-Ủy viên Ban nghiên cứu Văn Sử Địa (1951-1953).

Sau kháng chiến chống Pháp (1946-1954), Vũ Ngọc Phan tiếp tục công tác ở Ban Văn Sử Địa. Từ năm 1957, Vũ Ngọc Phan trở thành hội viên của Hội Nhà văn Việt Nam.

Năm 1959, khi Tổ văn học của Ban nghiên cứu Văn Sử Địa tách ra thành lập Viện Văn học, Vũ Ngọc Phan về công tác tại Viện, trở thành tổ trưởng tổ văn học dân gian (nay là phòng văn học dân gian và phòng văn học các dân tộc ít người) của Viện Văn học. Sau đó, Vũ Ngọc Phan được bầu làm Tổng thư ký, phụ trách cơ quan Hội Văn nghệ dân gian tại Đại hội Văn nghệ dân gian lần thứ nhất năm 1966.

Vũ Ngọc Phan mất ngày 14 tháng 6 năm 1987 tại Hà Nội, hưởng thọ 85 tuổi.

Tác phẩm

Theo thống kê chưa đầy đủ, Vũ Ngọc Phan đã để lại các tác phẩm sau:

Ký sự, nghiên cứu

1

Trên đường nghệ thuật 

(tiểu luận, 1940)

2

Nhìn sang láng giềng 

(ký sự, 1941)

3

Thi sĩ Trung Nam 

(thi thoại, 1942)

4

Nhà văn hiện đại 

(4 tập, 1942-1945)

5

Con đường mới của thanh niên  

(nghiên cứu, 1944)

6

Chuyện Hà Nội 

(bút ký, 1944)

7

Những trận đánh Pháp 

(ký sự lịch sử, 2 tập, 1946)

8

Sống ở muôn loài  

(biên soạn, 1946)

9

Truyện cổ tích Việt Nam 

(sưu tầm, tuyển chọn, 1955). Từ lần in thứ ba (1957) đổi tên thành Truyện cổ Việt Nam

10

Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam 

(sưu tầm, nghiên cứu, 2 tập, 1956), được tái bản nhiều lần

11

Những năm tháng ấy 

(hồi ký, 1987)

Dịch, phóng tác

12

Lâu đài họ Hạ 

(dịch tiểu thuyết của Hốp-man [Ernst Theodor Hoffmann, Đức])

13

Chọn bạn tình 

(dịch tiểu thuyết của Hoffmann)

14

Châu đảo  

(dịch tiểu thuyết của Robert Louis Stevenson )

15

An-na Kha-lệ-ninh  

(dịch tiểu thuyết Anna Karenina của Lev Nikolayevich Tolstoy, Nga)

16

Y-vân-hoa 

(dịch tiểu thuyết Ai-van-hô của Derek Wallcott, Anh)

17

Tiểu nhiên và Mị Cơ  

(dịch tiểu thuyết Trix-tan và Idơ theo phóng tác của Giô-dép Bê-đi-ê)

18

Mưu đàn bà  

(phóng tác truyện Ả rập theo bản dịch của Mac-rus)

19

Tấm gương nhỏ 

(dịch truyện dân gian Nhật Bản và Ả Rập)

20

Người Xô viết chúng tôi  

(dịch tác phẩm của Bô-rít Pô-lê-vôi)

Ngoài ra, ông còn soạn chung bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (Quyển I, 1957; Quyển V, 1960), làm Chủ biên bộ Truyện cổ dân gian các dân tộc Việt Nam (1961) và bộ Hợp tuyển văn học Việt Nam (1972).

Năm 2010, Nhà xuất bản Văn học cho in Vũ Ngọc Phan toàn tập, gồm 5 tập (không bao gồm truyện dịch và phóng tác).

Sự nghiệp văn chương

Trước 1945, Vũ Ngọc Phan được nhiều người biết tiếng qua bộ sách Nhà văn hiện đại. Trong đó, nhiều nhận định của ông cho tới nay vẫn còn giá trị. Sau đấy, đáng chú ý hơn cả là cuốn Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam. Sách có giá trị nhiều mặt, được tái bản nhiều lần.

Ghi nhận công lao và sự nghiệp của Vũ Ngọc Phan, năm 1996, ông được xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 cho những cụm công trình về văn nghệ dân gian.

Gia đình

Người bạn đời của Vũ Ngọc Phan là nhà thơ Hằng Phương, con gái nhà văn Sở Cuồng Lê Dư. Ông bà cũng là thân sinh của nhà khoa học nông nghiệp, Giáo sư viện sỹ Vũ Tuyên Hoàng, họa sỹ Vũ Giáng Hương, GS.TS Nông nghiệp Vũ Triệu Mân.

Sách tham khảo

Phần “Tiểu sử Vũ Ngọc Phan” in đầu bộ sách Vũ Ngọc Phan toàn tập. Nhà xuất bản Văn học, 2010.

Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Văn học, 50 năm xây dựng và phát triển. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003. trang 98.

Trần Hữu Tá, mục từ “Vũ Ngọc Phan” in trong Từ điển Văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.

(Nguồn: tổng hợp Internet)

Vũ Ngọc Phan lúc trẻ

Trở về

Danh Sách Tác Giả

http://phannguyenartist.blogspot.com/2015/10/danh-sach-tac-gia.html

Chân Dung Văn Nghệ Sĩ

http://phannguyenartist.blogspot.com/2017/02/chan-dung-van-nghe-sy-viet-nam-336-z.html

Emprunt Empreinte

http://phannguyenartist.blogspot.com/2011/05/phan-nguyen-oi-loi-cung-cac-tac-gia-va.html

MDTG là một webblog “mở” để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.

MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.
VIRGIL GHEORGHIU

Shoptinhyeu . vn thuoc115 . com bán các loại thuốc chống xuất tinh sớm, yếu sinh lý, thuốc cường dương tốt nhất thị trường

Thuốc viagra mua ở đâu bán ở đâu giá bao nhiêu rẻ nhất ?
Bạn liên hệ theo số điện thoại đường dây nóng bạn nhé
Nhà phân phối độc quyền
Tại TP HCM : 90/12 Cao Thắng, phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại 0928080808
Đại lý cấp 1 tại Hà Nội, miền Bắc : 243 Định Công Thượng, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại : 0936700000
Đại lý số 2 : 13 B10 mặt phố Phạm Ngọc Thạch, Quận Đống Đa, TP Hà Nội (nằm giữa ngã ba Phạm Ngọc Thạch với Lương Đình Của và Xã Đàn)

website :
shoptinhyeu . vn
thuoc115 . com
giaosutinhyeu . com

xem phim hài 18+

Wednesday, 1 October 2014 Mai Văn Phấn

http://phannguyenartist.blogspot.com/

Mai Văn Phấn

(1955 – …….) Ninh Bình

Nhà thơ

Con cá lớn bị quăng lên mặt đất

Hải Phòng 28/7/2014

Mai Văn Phấn

Sinh năm 1955 tại Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.

Đã xuất bản 21 tác phẩm, trong đó có 10 tác phẩm được tái bản nhiều lần và bổ sung bản Anh ngữ, Pháp ngữ, hoặc Anbani ngữ.

Đã đoạt một số giải thưởng Văn Học trong nước.

Thơ Mai Văn Phấn đã được giới thiệu trên các báo, tạp chí nước ngoài tại Thụy Điển, Anh Quốc, Hoa Kỳ, Canada, Úc, Hàn Quốc, Indonesia và Thái Lan v.v

Hiện sống và sáng tác tại Hải Phòng, Việt Nam

Tac phẩm tiêu biểu

Vừa Sinh Ra Ở Đó

Tập thơ

nxb Hội Nhà văn 2013

http://maivanphan.vn/MaiVanPhan/32/398/780/1224/Cac-tap-Tho/Tap-tho-VUA-SINH-RA-O-DO—Mai-Van-Phan.aspx

Hoa Giấu Mặt

Tập thơ

Nxb Hội Nhà văn 2012

http://maivanphan.vn/MaiVanPhan/32/398/780/1223/Cac-tap-Tho/Tap-tho-HOA-GIAU-MAT—Mai-Van-Phan.aspx

Bầu Trời Không Mái Che

Tập thơ

nxb Hội Nhà văn 2010

Tác phẩm đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 

http://maivanphan.vn/MaiVanPhan/32/398/780/1222/Cac-tap-Tho/Tap-tho-BAU-TROI-KHONG-MAI-CHE—Mai-Van-Phan.aspx

Và Đột Nhiên Gió Thổi

Tập thơ

nxb Văn Học 2009

http://maivanphan.vn/MaiVanPhan/32/398/780/1221/Cac-tap-Tho/Tap-tho-VA-DOT-NHIEN-GIO-THOI—Mai-Van-Phan.aspx

Hôm Sau

Tập thơ

nxb Hội Nhà văn 2009

http://maivanphan.vn/MaiVanPhan/32/398/780/1220/Cac-tap-Tho/Tap-tho-HOM-SAU—Mai-Van-Phan.aspx

Vách Nước 

Tập thơ

nxb Hội Nhà văn 2003

http://maivanphan.vn/MaiVanPhan/32/398/780/1219/Cac-tap-Tho/Tap-tho-VACH-NUOC—Mai-Van-Phan.aspx

Người Cùng Thời

Trường ca

nxb Hải Phòng 1999

http://maivanphan.vn/MaiVanPhan/32/398/780/1218/Cac-tap-Tho/Truong-ca-NGUOI-CUNG-THOI—Mai-Van-Phan.aspx

Nghi Lễ Nhận Tên

Tập thơ

nxb Hải Phòng 1999

http://maivanphan.vn/MaiVanPhan/32/398/780/1217/Cac-tap-Tho/Tap-tho-NGHI-LE-NHAN-TEN—Mai-Van-Phan.aspx

Cầu Nguyện Ban Mai

Tập thơ

nxb Hải Phòng 1997

http://maivanphan.vn/MaiVanPhan/32/398/780/1216/Cac-tap-Tho/Tap-tho-CAU-NGUYEN-BAN-MAI—Mai-Van-Phan.aspx

Gọi Xanh

Tập thơ

nxb Hội Nhà văn 1995

http://maivanphan.vn/MaiVanPhan/32/398/780/1215/Cac-tap-Tho/Tap-tho-GOI-XANH—Mai-Van-Phan.aspx

Giọt Nắng

Tập thơ 

nxb Hội Liên hiệp VHNT TP Hải Phòng 1992

http://maivanphan.vn/MaiVanPhan/32/398/780/1214/Cac-tap-Tho/Tap-tho-GIOT-NANG—Mai-Van-Phan.aspx

Thơ tuyển Mai Văn Phấn 

cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn

nxb Hội Nhà văn

Những tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài

A Ciel Ouvert

Bầu Trời Không Mái Che

Tái bản song ngữ Pháp-Việt

Grass Cutting In a Temple Garden

Ra Vườn Chùa Xem Cắt Cỏ

Tái bản song ngữ Anh-Việt

Out Of The Dark

Buông Tay Cho Trời Rạng

Tái bản song ngữ Anh-Việt

Seeds Of Night And Day

Những Hạt Giống Của Đêm Và Ngày

Tái bản song ngữ Anh-Việt

Firmament Without Roof Cover

Tập thơ được dịch ra Anh ngữ

      Tiểu luận 

Không gian thơ

Sáng tạo thi ca, với tôi không đến ngẫu nhiên, gặp hoàn cảnh, may mắn, hay  sự hồi đáp chóng vánh kiểu “tức cảnh sinh tình”… Mọi yếu tố cần thiết cho sự xuất hiện một bài thơ tôi thường chuẩn bị kỹ lưỡng, có khởi thuỷ, định hình trên lộ trình tới kết quả. Điều quan trọng trước hết trong sáng tạo là thiết lập không gian, không phải cho một bài thơ cụ thể, mà dành cho cả giai đoạn sáng tạo nhà thơ vươn tới; nó giống như việc phải chuẩn bị mặt bằng rộng, không gian lớn, cảnh quan đẹp cho một quần thể kiến trúc quy mô, đồ sộ. Không gian ấy hàm chứa những vấn đề lớn tạo nên từ trường ảnh hưởng cho những bài thơ cụ thể sau này. Đó là những ám ảnh cốt lõi về thời đại, thời cuộc, những quan chiếu, hệ luỵ trong xã hội, thái độ sống, thái độ chính trị của thi sỹ;  một cõi riêng của cảm giác hay linh giác mà người ngoài không thể dụng ý chạm tới, và cả những vấn đề muôn thuở của văn chương, như khuynh hướng, giọng điệu, thể loại, tính nhân bản v.v… 

Không gian sáng tạo này luôn mang giá trị biệt lập, độc sáng, không trùng hợp với những người khác, và, không lặp lại chính mình. Đây là thử thách lớn nhất với nghệ sỹ, đặc biệt nhà thơ, vì thường sau mỗi giai đoạn sáng tạo, các nhà thơ nhìn lại không gian mình vừa trải qua với thái độ tự hài lòng, cảm giác như mọi góc khuất đời sống, những bí ẩn của tâm trạng đều được ánh sáng thi ca soi tỏ; nói cách khác, nhà thơ như không muốn nói thêm điều gì, và, cũng thấy mọi ngả đường phía trước bị bịt lối… Nếu không mở được không gian nghệ thuật khác tiếp theo, nhà thơ sẽ rơi vào bế tắc, cùn mòn, thấy nặng nề nếu phải cố gắng nói những điều đã cũ. Đây là nguyên nhân cơ bản của căn bệnh “lão hoá” sáng tạo, khi nhà thơ chưa đến độ về già, nhưng không tìm được hướng đi mới, đành ngồi gặm nhấm vinh quang, hoặc muốn đánh động dư luận bằng những bài thơ vô thưởng vô phạt. 

Tôi đã dành nhiều thời gian nghiên cứu, lý giải một số hiện tượng thơ tiêu biểu bên ngoài để rút ra bài học về cách đi dài hơi trong sáng tạo. Ta có thể dẫn chứng nhiều gương mặt thi ca lớn, dù tuổi đã cao nhưng sức sáng tạo của họ luôn mãnh liệt và bền bỉ: nhà thơ Pablo Neruda (Chi – lê) viết tập thơ Trái tim vàng  ở tuổi 70, Adonis nhà thơ Syria viết bằng tiếng Ảrập đang sung sức ở tuổi 91 – người từng được dư luận đánh giá xứng đáng nhận giải Nobel Văn Chương năm 2011 trước nhà thơ Tomas Transtromer (Thụy Điển). Cách mở ra không gian thơ mới lạ, biệt lập là nguyên nhân cơ bản để các nhà thơ trở về với sự trong trẻo mang tầm tư tưởng lớn bằng cách nói uyên bác, hồn nhiên, bày tỏ những điều lớn lao, hệ trọng bằng ngây thơ, giản dị của mình. Không gian ấy ban đầu mở ra trước mắt nhà thơ có thể đột khởi khi  cá nhân nhà thơ chịu ảnh hưởng những biến động lớn về chính trị, thời cuộc, hoặc những cú “sốc” tinh thần như đẩy anh ta vào một thế giới khác; ngoài ra, phần lớn các nhà thơ phải tự mở cho mình cánh cửa vào thế giới nghệ thuật riêng. 

“Tự mở” chính là kết quả của quá trình tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, vốn sống… kết quả của quá trình nỗ lực không ngừng tự tạo lập một đời sống nội tâm biệt lập và mới mẻ,  biến hóa đa dạng hơn nhiều so với bất cứ hoạt động sống thông thường nào. Đồng thời nhà thơ phải có chính kiến/ chủ kiến rõ rệt, lý giải được những chuyển động, sự phát triển biện chứng của lịch sử, thể chế, cộng đồng, dự đoán được những xu thế tất yếu, biết mở ra lý tưởng thi ca để nung nấu, theo đuổi đến cùng cái đẹp mình đã nhìn/ cảm thấy, vươn tới tự do, bác ái, công bằng… Quá trình tích lũy đến mức “tự mở” được không gian riêng biệt sẽ giúp nhà thơ biết nghi vấn, cật vấn những giá trị cũ, trước hết của chính mình ở những giai đoạn trước, sau đó có khả năng định hình/ định vị thơ đương đại chúng ta đang ở đâu, sẽ đi tới đâu … Trong lộ trình thiết lập không gian nghệ thuật riêng biệt, nhà thơ rất dễ chùn bước nếu thiếu tự tin, thiếu dũng cảm trước sức ép của đám đông vốn dĩ quá quen với lối thẩm mỹ cũ, hoặc dễ dao động trước những lời phê bình thẳng thắn, chân thành nhưng không nắm vững quy luật rộng mở của sáng tạo nghệ thuật theo nghĩa xác đáng của nó. Trong không gian mới, nhà thơ ngỡ như mình được tái sinh trong sáng tạo, được mang mối “hoài nghi” lớn về những giá trị cũ để khao khát làm ra cái mới phù hợp với quy luật của sự đa dạng và vô biên, tìm được tiếng nói đích thực của thế hệ mình. Và, chỉ có không gian riêng biệt ấy mới đủ khả năng phục hoạt những rung cảm tươi ròng của thi sỹ, giúp anh ta tự tìm đường, dự báo được những giá trị văn minh, tiến bộ vẫn còn ẩn giấu trong mơ hồ, mịt mù phía trước. 

Không gian mới trước mắt hôm nay sẽ là quá vãng trong tương lai của nhà thơ, đó chính là quy luật của sáng tạo. Con đường sáng tạo không bao giờ dừng lại và luôn là vẻ đẹp chưa bắt gặp. Mỗi bài thơ luôn để nhà thơ làm lại mình, khám phá thế giới và đời sống… Khi nhà thơ còn tích lũy, trải nghiệm để sáng tạo, thì cánh cửa luôn mở ra trước mắt anh ta như một “cửa ải” để đến với vùng đất mới, rồi sẽ đóng lại, và, tiếp tục mở ra… Sáng tạo là lộ trình mà nhà thơ phải vượt qua nhiều cửa ải, trong không gian vô tận những cửa ải.

Phê bình 

Thơ Dương Kiều Minh mang hơi xuân từ những cánh đồng

Một sớm vắng

ùa lên khói bếp

về đây củi lửa ngày xưa…

(D.K.M)

“Vừa giấc mơ dịu dàng đậu xuống”, tên bài thơ thứ 240, xếp cuối cùng trong tập thơ “Thơ Dương Kiều Minh“ (Nxb. Hội Nhà văn, 2011) như tạm khép lại những giấc mơ lạ kỳ và tuyệt đẹp của chính nhà thơ. Giấc mơ ấy đã nhiều lần đậu xuống, đánh dấu quá trình vận động, cách tân và những cảm thức lạ lẫm của ông. Chỉ vừa xướng tên các tập thơ của nhà thơ Dương Kiều Minh, tôi như nghe rõ tiếng cửa mở vào những không gian mới lạ, tinh khôi: “Củi lửa” – “Dâng mẹ” – “Những thời đại thanh xuân” – “Ngày xuống núi” – “Tựa cửa” – “Tôi ngắm mãi những ngày thu tận” – “Khúc chuyển mùa” – “Thơ Dương Kiều Minh” (1)… Thơ Dương Kiều Minh là một giọng điệu riêng biệt trong dòng chảy thơ cách tân sau 1975…

“Củi lửa”, tập thơ đầu tay của Dương Kiều Minh (Nxb. Tác phẩm mới, 1989) đã cháy  và nổ, sức nóng phả lên đời sống văn học thời điểm này đang khá lạnh lẽo. Đó là tiếng nói biệt lập, run rẩy với nhiều tầng cảm xúc phức hợp, và, như chiếc đầu máy mới xuất xưởng có công suất lớn, “Củi lửa“ đủ sức kéo theo những toa tầu chở nặng, và còn nối theo nhiều toa bất tận…

Tập thơ đầu tay thường đánh dấu điểm mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của những thi tài, hiển lộ hương sắc, và, cả hạn chế của người viết, mà sau đó, dù nhà thơ ấy có rẽ sang nhiều ngả khác, thì khả năng sáng tạo thường được tiên báo trong những trang viết đầu đời. “Điêu tàn“ của Chế Lan Viên, “Lửa thiêng“ của Huy Cận, “Thơ thơ“ của Xuân Diệu; một số nhà thơ nước ngoài, như Adonis (Syria ) với tập thơ “Những bài thơ đầu “,  1 957; Pablo Neruda (Chile ) với tập thơ “Hai mươi bài thơ tình và một bài thơ tuyệt vọng“, hoàn thành lúc ông chưa đầy hai mươi tuổi v.v… là những ví dụ tiêu biểu.

“Củi lửa“ của nhà thơ Dương Kiều Minh là một ví dụ khác, là cánh cửa rộng, đột mở, đưa bạn đọc vào một ngày mới ngập tràn ánh sáng, với nhiều ý tưởng bất ngờ, tươi ròng cảm xúc và trong sáng đến nghẹn thở. Tập thơ được viết bằng thi pháp mới, chắc tay, được chuẩn bị kỹ lưỡng, đặc biệt hơn, ở đó không có thái độ ngập ngừng, lưỡng lự – như một số tác giả cùng thế hệ còn ảnh hưởng những quan niệm của thi ca truyền thống – mà quyết liệt, đầy tự tin…

Không gian thơ của Dương Kiều Minh bao giờ cũng là một không gian riêng, vì ngay trong nhiều hình ảnh quen thuộc như ô ban công, chùm mùng tơi, bông cúc, rèm cửa, cô gái mù, tiếng lá, bóng đêm, heo may, dòng sông, chiếc giày, mầm cây…  cũng để lại những vệt vân tay và hơi thở nóng hổi của một Dương Kiều Minh đầy sáng tạo. Về tập thơ này, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã chia sẻ sự đồng cảm của mình một cách chính xác và tinh tế: Khi đọc tập thơ đầu tay của Dương Kiều Minh, tập  Củi lửa, tôi thấy thi đàn Việt Nam  lúc ấy xuất hiện một giọng nói riêng biệt. Giọng nói ấy tách biệt khỏi rất nhiều những giọng nói khác đầy tính lệ thuộc. Giọng nói ấy vang lên trong sáng và quyến rũ, nhưng đầy cô đơn . Tập thơ “Củi lửa“ của Dương Kiều Minh đã tạo một dấu ấn quan trọng, trước tiên là với chính nhà thơ trong hành trình xác lập những giá trị của lối viết khác . Tôi từng đọc “Củi lửa“ nhiều lần, trong nhiều tâm trạng khác nhau, và luôn bắt gặp ở đó sự thơ ngây mê đắm của nhà thơ trước sự khởi sinh, tái tạo của thế giới. Thiên nhiên và con người hiện lên huyền ảo và trong suốt, còn thi sĩ, đang ngơ ngác trở về thuở bé dại, ngỡ ngàng nhìn muôn loài muôn vật với tràn trề xúc cảm. Ngỡ vừa qua giấc mơ hoang dại/ cậu bé tìm lại đồng xu đánh mất ngày xưa/ đáy bể ngâm trong vắt/ ồ một vầng trăng vừa được vớt lên  (Cám dỗ).

Nổi trội trong “Củi lửa“ là sự tinh tế và huyền nhiệm. Đây cũng chính là vị riêng của thi sĩ. Trong những tập thơ về sau, mạch thơ Dương Kiều Minh vạm vỡ, bung phá theo nhiều hướng khác nhau, nhưng luôn giữ được nét tế vi trong kiến tạo hình ảnh và tiết chế cảm xúc ở mức cần thiết. Đoạn thơ trích từ bài thơ “Trong mưa“ là một minh họa cho sự mẫn cảm trước thế giới thơ tinh khiết, trong lành: Trong mưa có một ngôi đền/ và mưa từng ngón buông mềm mái tây/ và mưa từng ngón ngón gày/ len len run rẩy bàn tay gượng gàng  (Trong mưa). Nhà thơ, như một điêu khắc gia tài hoa tạo hình chính xác từng chi tiết kỳ ảo và sống động: Mặt trời lung linh khu vườn mẹ/ Bức tường ánh sáng…/ Điều gì dào lên trong những hạt li ti  (Hy vọng).  Và kìa, đó là những ban mai vừa lộng lẫy tái sinh; kìa những đồng cỏ đầm sương chợt hiển hiện như trong cổ tích: Đâu phải nữa con búp bê bằng cỏ/ Con đường hoa vối rụng đầy/ Ban mai đổ về xa vắng/ đồng cỏ đầm sương lóa ướt dưới trời  (Bản giao hưởng đồng quê). Sống và viết, nhà thơ Dương Kiều Minh chọn cho mình một góc khuất im lặng. Ông qu an sát, ghi chép và chậm rãi kể những câu chuyện đời theo ngôn ngữ của riêng mình: chiếc ô tô, ngôi nhà, ô cửa hoa loa kèn  được đặt trong một khung cảnh tạo nên hình ảnh phố đêm dịu dàng: Chiếc ô tô màu xanh lá cây/ những ngôi nhà màu xanh lá cây/ ô cửa chớp bình hoa loa kèn đỏ  (Thành phố buổi đêm).

Bài thơ “Củi lửa“, chủ điểm của toàn tập, như một chớp mắt để thức giấc bàng hoàng. Mở ra những hình ảnh gần gũi, ấm nóng như ta vừa được ôm ấp, được chạm tay vào. Và giữa tầng tầng hình ảnh, lớp lớp câu thơ là khoảng trống, một đặc sắc trong thi pháp thơ Dương Kiều Minh: lăng lắc tuổi xuân/ lăng lắc niềm thôn dã/ bếp lửa ngày đông … Những hình ảnh tuổi xuân, thôn dã, bếp lửa ngày đông  đứng cạnh nhau tưởng như rời rạc, phân rã, nhưng chúng được kết dính, đan bện lại trong một trường cảm xúc mạnh mẽ và nhất quán. Bạn đọc sẽ cảm thấy được ánh sáng thanh khiết, ấm nóng tỏa ra từ chính những khoảng trống đó. Đọc thơ Dương Kiều Minh, ta ngỡ như ai đó liệng viên sỏi xuống hồ yên tĩnh làm các vòng tròn đồng tâm trên mặt nước cứ lan đi mãi. Như hình ảnhBên những hoàng hôn loang lổ gò đồi/ mùi lá bạch đàn xộc vào giấc ngủ/ con về yêu mái rạ cuộc đời  chính là sự giao thoa giữa hiện thực đời sống và thế giới kỳ ảo, của giấc mơ này đang mơ về những giấc mơ khác nữa, xa nữa… Bài thơ có khổ kết độc đáo, rất “Dương Kiều Minh”: Một sớm vắng/ ùa lên khói bếp/ về đây củi lửa ngày xưa … Hình ảnh sớm vắng  nhói lên như nốt cao nhất trong một nhạc phẩm không lời, làm phát sáng, làm âm vang đồng hiện những diễn tiến hình ảnh, rồi chốt lại trong câu cuối: về đây củi lửa ngày xưa. .. Bài thơ tuy khép lại nhưng ngay sau đó lại tạo liên tiếp những âm thanh vang vọng. Đó là trạng thái sâu lắng của cảm xúc, lôi cuốn người đọc vào thế giới của mặc tưởng trang nghiêm, nuôi dưỡng trạng thái rộng mở, cao khiết của tâm hồn. Cách viết này còn được triển khai trong nhiều bài ở những giai đoạn sau, tạo nên nét đặc trưng riêng chỉ có trong phong cách thơ Dương Kiều Minh. Đó là ban mai trong tiếng ho húng hắng của mẹ:Những ban mai như thể đầu tiên/ ào ào đổ/ lấp lánh dòng ánh sáng/ mẹ húng hắng ho…/ mưa bụi dưới thềm  (Ban mai). Đó là giọt sương treo trên cành trúc,  sự đột biến để nâng cảnh huống thực lên cái cao vời của tâm tưởng: Rượu đây/ Bạn đấy/ Ta nâng cốc chạm làn gió đầu đông mang bí ẩn khởi lên xao động trong ngần tựa giọt sương treo trên cành trúc  (Bên cuộc rượu mùa thu). Đó là bức tranh tương phản giữa đổ nát  & thanh xuân  đã thổi bùng sinh khí mãnh liệt: ấy ngọn lửa bùng dậy/ ngọn lửa cất giữ tháng năm xa cách/ ngọn lửa dìu các triều đại trườn qua đổ nát/ những thời đại thanh xuân . Đó là cách ông quán tưởng trong khoảng không tĩnh lặng của bài thơ “Không ai gọi tôi trở dậy vào buổi cuối thu“. Ở đó mỗi hình ảnh sự vật đều mở ra một không gian riêng. Cả bài thơ như cánh cửa lớn mà phía sau đó là vô vàn những cánh cửa nhỏ với đan xen những lối đi. Hãy cùng lắng nghe nhà thơ Dương Kiều Minh gọi hồn sự vật: số phận giống câu thơ vừa viết xong, bị xoá/ bản nháp bài thơ gió nhấc lên tựa một lá bùa . Ở đây ta thấy Dương Kiều Minh như hạt sương trong suốt cứ cố nép, ngấm mãi vào vạn vật làm cho chúng trở nên mát lành, trong suốt. Và nhân vật trở nên tỉnh táo trong một biến ảo rất lạ ở khổ kết của bài thơ: Không ai gọi tôi trở dậy vào buổi cuối thu/ tôi nằm viên mãn – chiếc lá vàng dưới hàng song thụ/ Nếu mẹ tôi mà biết/ Liệu mẹ tôi trách cứ các người … (Không ai gọi tôi trở dậy vào buổi cuối thu). Sự  biến ảo này cũng là cách gọi mời, kích thích sự sáng tạo tiếp theo của người đọc, tùy thuộc vào mặt bằng văn hóa và trải nghiệm riêng của họ.

Sau tập thơ “Củi lửa“, nhà thơ Dương Kiều Minh luôn chú tâm khai triển thi pháp đã minh định từ tập thơ đầu tay. Ở những tập thơ “Dâng mẹ“, “Những thời đại thanh xuân“, “Ngày xuống núi“, “Tựa cửa“…, ông vẫn giữ được giọng nói trong trẻo, thơ ngây ban đầu. Này là một mùa vàng đầy bàng hoàng, như thể thế giới vừa bắt gặp trong cái nhìn đầu tiên: Mùa vàng, mùa vàng/ những ký ức không bao giờ lặp lại/ ta còn nguyên sơ hơi thở tự do  (Những thời đại thanh xuân). Còn nữa, là giai điệu và tiết tấu của đời sống vừa phồn tạp vừa thanh khiết: Bài Ca Niềm Vui Sống/ ấy tiếng chuông cuối chiều dóng dả/ cơn lốc cuốn theo đám bụi nô đùa/ hai đứa trẻ dắt nhau chân trời xa tít.  (Khúc dâng Mozart). Những bài thơ về sau, nhà thơ đã dần tiết chế sự trong trẻo, thơ ngây, để thế vào đó tâm trạng tỉnh táo đầy chiêm nghiệm thế sự: Ồ khát sao/ cơn khát thuở nhỏ/ cơn khát thuở khai thiên lập địa/ cơn khát ruổi dài theo mộng ước ta  (Những thời đại thanh xuân).

Có thể nói, nhà thơ Dương Kiều Minh phần lớn tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của thơ ca phương Đông kim cổ, thường mượn thiên nhiên, cảnh vật để nói về cái hữu hạn, mong manh chìm nổi của kiếp người: Ta hát về người niềm tưởng nhớ/ Sóng nước phù sa/ Tháng năm ruồng bỏ/ Ta chiếc lá cơ may trôi dạt lên bờ  (Sông Hồng). Ánh sáng của văn hóa, triết học phương Đông, đặc biệt của thi ca, càng sáng tỏ trong những giai đoạn sau này, từ tập thơ Tôi ngắm mãi những ngày thu tận  đến tập thơ Khúc chuyển mùa. Tôi ngủ thiếp trong bài thơ Đường/ sương dăng dầy bến bãi/ Vành trăng động mắt người con gái/ bức rèm buông tòa lâu đài Tàu  (Bộc bạch). Ông nặng lòng vương vấn với những thi liệu quen thuộc của thơ ca phương Đông nhưng biết mở những chiều kích bất ngờ của liên tưởng và suy niệm trong thi tứ, chữ của ông bình dị nhưng có sức ám ảnh, và đôi khi, biểu lộ sự quẩn quanh phức rối của cảm xúc. Sức vươn của mỗi mạch thơ luôn khoẻ khoắn, nhịp điệu tự nhiên và tự do.  Năm giờ sáng nước chảy tràn trên mái/ tựa hồ số phận ấn định/ thinh không buông tiếng chuông nhói ngực  (Vô đề).  Tôi chợt hình dung thấy hình ảnh một kẻ sĩ thời hiện đại đang tự vấn bằng giọng trầm, đều đều… cất lên trong quầng sáng lung linh và thanh sạch. Nhưng có một cảm giác rất lạ khi đọc liên tục nhiều bài thơ của thi sĩ, tôi lại thèm tiếng quát mắng, thậm chí tiếng cười khôi hài của ông với đám người đùa nghịch, hỗn xược nào đó…

Khác với tập thơ đầu tay, nhiều hình ảnh dung dị trong thơ Dương Kiều Minh sau này được nhìn bằng hệ quy chiếu khác. Câu thơ sau làm ta hình dung Dương Kiều Minh có lúc muốn hiện thân thành nhà tư tưởng hơn là một thi sỹ: Ôi, mưa đông, mưa đông! Cơn mưa lướt qua cuối chiều mang theo bao giấc mộng./ Một hạt mưa ghé sát nói nhẹ: Thân xác này thật ra đã được tạo bằng tư tưởng  (Mưa đông).

Tập thơ  “Khúc chuyển mùa“ là ngôi nhà thơ để Dương Kiều Minh trở về sau những chuyến du hành. Ở đây, ta gặp lại sự trẻ trung và điềm đạm, sâu sắc và thơ mộng: Lô xô những quãng đời/ Dựng men theo bờ nước/ Giật mình cơn mơ đêm trước/ Hiện về tuổi trẻ của ai  (Chúng tôi gặp nhau ở bên kia hồ nước). Nhưng lần này, hình ảnh ruộng đồng, thôn dã tái hiện trong thơ ông mang vẻ đẹp và âm hưởng hoàn toàn khác trước: Đã lâu rồi không đi qua những cánh đồng sương sớm tươi mùi cỏ xuân những lá mầm vươn dậy mãnh liệt./ Vọng đến tiếng kèn buổi chiều giữa xuân trỗi dậy nỗi niềm xa vắng  (Tự sự bên mùa). Cánh cửa một mùa xuân chín  đã mở ra trước mắt nhà thơ Dương Kiều Minh bằng âm điệu và hình ảnh mới, bền bỉ, với nguồn năng lượng thấm sâu tỏa rộng hơn: Niềm xuân thúc giục/ Niềm xuân mách bảo/ Niềm xuân vươn dậy cõi mênh mông tĩnh lặng/ Bóng lớn cây dã hương cổ thụ vươn cao giữa trời đất trong rạng rỡ ngày mới/ Thổn thức làn ánh sáng toả lan hơi thở xuân về  (Giao thừa).

Ở khía cạnh khác, thơ văn xuôi là một thế mạnh của nhà thơ  Dương Kiều Minh.  “Sực nhớ núi đồi“  là  một trong những b ài thơ văn xuôi đầu tiên tiêu biểu, và ở đây, đã hiện lộ nét ung dung, tự tại, cảm xúc tươi non được kiềm chế lại.  Mạch thơ trải rộng, câu thơ được kéo dãn với góc quan sát rộng, giàu liên tưởng. Tôi chợt nhớ núi đồi những đêm tĩnh lặng trong trẻo, ngôi sao xanh ánh sáng bị làn hơi ẩm tách ra thành nhiều sợi tinh khiết…/ Đêm đêm những nàng tiên cánh mỏng bay là là trên những cánh rừng và dòng sông hắt ánh sáng dìu dịu bờ dốc thoai thoải . Những hình ảnh trong bài dung dị, song có lúc lại như sao chép chi tiết của đời sống nhưng vẫn đậm tình cảm riêng biệt của người viết: Tôi mở ý tưởng thơ mộng chỉ thấy hình ảnh thế giới khô cằn. Mùa đông đến dài dặc, mùa xuân hiện gương mặt tiều tuỵ căn nhà chen chúc cũ nát . Có thể, trong bài thơ văn xuôi đầu tiên này, hiệu ứng ngôn ngữ và hình ảnh chưa cao, một số câu còn lẫn với cách nói của văn xuôi, khoảng trống trong thơ chưa lớn và chưa tạo được bất ngờ. Bài thơ này, không thấy in trong tập thơ “Thơ Dương Kiều Minh”,  nhưng  theo tôi, đã đánh dấu sự chuyển biến trong thi pháp thơ Dương Kiều Minh. Tuy nhiên, đó chỉ là những bước đi chập chững đầu tiên. Ở những bài thơ văn xuôi sau này, xét một cách tổng thể, ta nhận ra mạch thơ ngày càng vạm vỡ, tự do, tung tẩy hơn và đó cũng chính là cốt cách phong vận của ông. Nhiều bài thơ như cơn gió lớn thổi mạnh trên cánh đồng bất tận: Giữa thinh lặng mênh mông tiếng gió từ phía sông Đáy duổi qua con đê kéo ngang cánh đồng trước nhà hoà cùng tiếng côn trùng tiếng xào xạc cây lá tạo nên những giai điệu kỳ bí của đêm toả ngát hơi thở bí ẩn thiên nhiên và vũ trụ  (Gửi bạn đêm cuối năm).

Không gian trong thơ văn xuôi  Dương Kiều Minh là những hình khối, những quần thể tượng đài độc đáo, gợi ta nhớ tới những biến tấu từ 7 mô-đun của  điêu khắc gia Điềm Phùng Thị, mang đậm phong vị và triết lý phương Đông; bí ẩn, dựng lên bức tường cao ngất, tiếp nối, dọc ngang, gây choáng ngợp. Nhiều hình ảnh vừa mới thoáng hiện đã nhanh chóng đan lồng với những hình ảnh khác lớn hơn, dị biệt hơn:  Ai vẫn đứng kia buổi cuối chiều giông gió, phố xá bời bời, hồn chia hai ngả. Vẫn ở đó ao đầm gò bãi, hiện về đây hiu hắt núi đồi. Niềm thương cảm quanh quất bao năm dâng ngùn ngụt núi rừng chập chùng dòng sông vách đứng  (Tựa cửa). Và trong không gian này, cùng với cảm xúc, là những chiêm nghiệm về vũ trụ, trải nghiệm về nhân sinh… Hình ảnh, tưởng chừng giản đơn nhưng mỗi mỗi đều chứa đựng những ý nghĩa phổ quát. Chiếc lá sen khô  trong câu thơ sau mang một vẻ đẹp của nhiều trạng thái cảm giác, mở cho bạn đọc liên tưởng khác về thiên nhiên, đời sống: Sự kiêu hãnh giờ chỉ còn dấu vết kỷ vật. Những chiếc lá sen khô đội mưa tìm lại mùa thu đầm Vạc. Những âm thanh trong trẻo vang động đâu đó trong trời đất ngân trên cây thiên cầm thuở ấy  (Những chiếc lá sen khô). Khác với những nhà thơ cùng thế hệ, DKM thường chủ ý làm cho những chuyển động của thi ảnh chậm lại so với quy luật thông thường. Trong khi đó, những nhà thơ trẻ cách tân khác thường đẩy tốc độ hình ảnh đi nhanh hơn, bằng cách cắt ngang hình ảnh, tạo khoảng cách lớn, làm phân rã, đột ngột thay đổi quy luật chuyển động…

Nhịp điệu được tiết chế chậm lại trong thơ  Dương Kiều Minh đã tạo một hiệu ứng khác biệt. Nó diễn tả một thái độ sống, thái độ ứng xử trước nhân thế, cho ta thấy được tâm trạng lưỡng lự của một người vừa yêu vừa chán ngán sự đời.  Sương muối giăng mù trời, lòng người lửa đốt. Mười hai tháng trôi qua chớp mắt. Mọi việc chậm chạp, trì trệ gần như ngưng đọng. Mình như con ếch ngắm bầu trời hiếm hoi trong đêm, dường như có điều gì bất ổn nơi từng đám sương từ từ trút xuống chộn rộn mờ ảo.…/ Ngang cõi nhân gian huyền ảo cô lạnh, kia ai cầm ngọn lửa phất qua…  (Ghi ở buổi cuối năm). Bàn tay ai cầm ngọn lửa phất qua  cho thấy thái độ vừa chằm bặp vừa lơ đãng, vừa trách nhiệm vừa buông bỏ, thờ ơ trong biến ảo khôn lường của đời sống thực tại… Bằng cách “kìm nén” này, nhà thơ Dương Kiều Minh đã sáng tạo nhiều bài thơ văn xuôi thành công. Trong bài thơ “Tìm sen ở Quan Sơn”, ta bắt gặp cách nhìn đờ đẫn, giọng nói chậm rãi cất lên, vừa uể oải vừa minh triết: Chiều xuống, thoáng mưa ngâu nhè nhẹ. Bên rặng phi lao, những em bé gái đeo giỏ mò cua bên cầu Dậm. Núi non hồ nước phủ làn hơi mưa, một vài trái núi bị đẽo gọt loang lổ lộ ra trắng toát .. Mọi cảnh vật ở đây đang diễn ra như nó vốn có, buồn tẻ nhàm chán, hay chộn rộn, mơ hồ… còn tùy ở cảm nhận của người đọc, nhưng cái vẻ trắng toát  lộ ra khi một vài trái núi bị đẽo gọt loang lổ  đã tạo một hiệu ứng kinh hoàng, khi chính bàn tay con người phá hủy vẻ đẹp nguyên sơ của thiên nhiên. Đọc đến câu cuối, ta thấy tất cả những hình ảnh vừa gặp từ khổ thơ đầu đã không còn ở vị trí cũ, mà xáo trộn, hoảng hốt, vừa muốn gào thét vừa muốn câm lặng…

Gương mặt cô đơn thường hiện lên đa diện, nhiều chiều trong thơ Dương Kiều Minh. Những hình ảnh ở khổ thơ đều như đang vận động trong sự đông đảo cõi người, nhưng chúng chuyển động như để làm tròn bổn phận, định phận của mình. Chúng di chuyển như không còn mối liên hệ với chung quanh, trong lẻ loi, cô quạnh: Sự ưu tư buổi cuối chiều đòi hiện trên trang trắng. Bóng tối theo hơi lạnh thấm dần xuyên qua lùm cây, mái nhà, ô cửa/ Cơn khát dục vọng thiêu cháy làm biến dạng những khuôn mặt/ Lại đã để lại phía sau mùa lũ, dòng sông vào đông để lộ những vạt đất bồi, những con chim rẽ giun từ đâu đến mải mê thản nhiên quên cả chiều đã xuống/ Vẫn lùm cây này, vẫn bờ gạch lát, câu chuyện đã là của thế kỷ trước  (Những con chim rẽ giun bên vạt sông chiều).

Hình ảnh người mẹ tỏa sáng suốt các tập thơ của Dương Kiều Minh, như biểu tượng của nguồn cội, là nơi nhà thơ nương tựa lúc cô đơn, nơi cố hương tiễn biệt và nơi để quay về. Bất cứ câu thơ nào nhắc tới mẹ, mơ hồ chạm hình bóng mẹ, đều vang lên trong tâm hồn nhà thơ rưng rưng tiếng chuông cầu nguyện, niềm khắc khoải khôn nguôi, nỗi nhớ quay quắt, da diết… Một vệt nước trên tán lá, một tiếng hát và bước chân, tiếng mẹ gọi trong chiều khói lam là những giấc mơ dịu dàng : Cơn mưa đêm để lại vệt nước trên tán lá khóm đại hồng môn/ bài ca đuổi theo bước chân trẻ thơ con đường ô tô chạy men đồng bãi/ ai như tiếng mẹ gọi ngôi làng khói tỏa xa xa  (Vừa giấc mơ dịu dàng đậu xuống).  Chiếc giày  trên lớp lá thu  trong câu thơ sau diễn tả tâm trạng hụt hẫng, phi lý, cô độc của nhà thơ bên phần mộ mẹ: Trên cánh đồng mẹ nằm cô quạnh/ mẹ hằng mong tôi khôn lớn một ngày./ Đâu đó bên hàng song thụ/ trên lớp lá thu còn một chiếc giày… ( Không ai gọi tôi trở dậy vào buổi cuối thu). Tình cảm ấy lúc như tơ nhện giăng trên mặt hoa mỗi sớm ổ mầm đậu hòa lan mẹ ủ lên mỗi sớm/ Có mùi sương mùi nước/ tuổi thơ ăm ắp buồn  (Bướm trắng);  lúc bóng mẹ hiện về ấm áp, bao dung: Mẹ chẳng trách. Mẹ lần lần run rẩy/ nghe tiếng tôi thốt lên phía hiên nhà…  (Bên những sợi tơ ánh sáng). Từ tập thơ  Tôi ngắm mãi những ngày thu tận,  những nỗi đau bệnh tật đôi khi được nhắc tới càng đẩy ông vào cô quạnh. Trong cơn lẻ loi ấy, ông thường cất tiếng gọi mẹ; tiếng gọi ngắt quãng, bập bẹ thơ ngây như thuở còn trong vòng tay âu yếm của Người: Mẹ ơi, mùa xuân gấp gấp, con nghe thấy ngõ quê tinh khôi rải ướt xốn xang bước chân thôn nữ gánh nước ngày cuối năm, cây đào trụi lá nở những bông hoa đầu tiên, hơi xuân tràn về từ những cánh đồng  (Mẹ ơi, mùa xuân gấp gấp).

Những bài thơ cuối của tập thơ “Thơ Dương Kiều Minh“ đã mở thêm những chiều kích khác trong suy tưởng và cảm xúc, là sự tìm đến/ trở về của nhà thơ với vẻ đẹp giản dị và hiện đại. Hơi xuân tràn về từ những cánh đồng … Câu thơ ấy như ánh sáng luôn soi chiếu suốt lộ trình thơ ca Dương Kiều Minh, là đích đến phía chân mây, là “nhân đức tin” cho ông vượt qua mọi thử thách, khó khăn để gặt hái những thành công ngoài mong đợi. Dương Kiều Minh cùng với các nhà thơ cùng thế hệ đã làm cuộc “vượt thoát” ngoạn mục, tạo nên một khuynh hướng thơ sau 1975, góp phần quan trọng vào cuộc cách tân thơ Việt trong những thập niên qua. Tôi chọn câu thơ trong bàiTự sự bên mùa  của Dương Kiều Minh để kết thúc bài viết, như một lời cầu chúc cho linh hồn nhà thơ được thảnh thơi ở cõi vĩnh hằng Tỉnh dậy, đã đầu hạ/ âm nhạc reo vang những con đường rộng thênh xa hút ngang qua những nẻo quê, một miền quê bỏ lại…

Hải Phòng, 28/3/2012

Mai Văn Phấn

______________ _____________

( 1 ) – Tên các tập thơ của Dương Kiều Minh:

– Củi lửa (NXB Tác phẩm mới – Hội Nhà văn, 1989).

– Dâng mẹ (thơ, NXB Văn hóa, 1990).

– Những thời đại thanh xuân (thơ, NXB Văn học, 1991).

– Ngày xuống núi (thơ, NXB Văn học, 1995).

– Tựa cửa (thơ, chưa xuất bản, 2001).

– Tôi ngắm mãi những ngày thu tận (thơ, NXB Hội Nhà văn, 2008).

– Khúc chuyển mùa (thơ, chưa xuất bản, 2011).

– Thơ Dương Kiều Minh (thơ, NXB Hội Nhà văn, 2011 – bổ sung 2 tập thơ chưa xuất bản).

Phỏng Vấn

Sáng tạo, tinh thần cho điểm đến

(Nhà thơ Ko Hyeong Ryeol, Tổng biên tập tạp chí Thi Bình

 (The poet society of Asia thực hiện)

Báo Văn Nghệ trẻ:  Nhận lời mời của Ban tổ chức Festival Thi ca và Văn học Hàn Quốc-ASEAN “Korea-ASEAN Poets Literature Festival”, với chủ đề “Creativity of Asian Poets, Asian Spirit for Becoming” (Sáng tạo của nhà thơ châu Á, tinh thần cho điểm đến), nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và nhà thơ Mai Văn Phấn đã đến Hàn Quốc tham dự từ ngày mồng 2 đến 7/12/2010. Hai nhà thơ đã đọc thơ, tham luận và giao lưu với bạn đọc xứ “Kim Chi” tại 3 thành phố (Seoul, Ansan và Sokcho). Trước khi đến Hàn Quốc, Nhà thơ Mai Văn Phấn đã trả lời tạp chí Thi Bình ( Poem and Comment Magazine):

– Ko Hyeong Ryeol:  Chào nhà thơ Mai Văn Phấn. Trước hết xin thay mặt Ban tổ chức cảm ơn ông và nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã nhận lời tham dự Festival Thi ca và Văn học Hàn Quốc-ASEAN. Sau khi đọc kỹ các tác phẩm của ông, tôi có vài điều muốn hỏi liên quan tới tinh thần chủ đạo của Festival “Sáng tạo của nhà thơ châu Á, tinh thần cho điểm đến”. Điều này sẽ giúp chúng tôi hiểu rõ về ông hơn trước khi ông đến Hàn Quốc. Câu hỏi nhân loại, trong đó có các nhà thơ đang đi về đâu? Nhà thơ, anh là ai trong thế giới đương đại này là chủ đề tất cả chúng ta đang quan tâm. Vậy xin ông cho biết quan niệm riêng của ông về thơ ca?

– MVP: Các nhà thơ lần theo thơ ca nhằm khai mở tiếng nói mới, hoặc tìm lại âm sắc thuở hoàn nguyên đã mất. Từ khi hình thành ngôn ngữ, tiếng nói loài người luôn bị biến dạng, vừa đào sâu vào bản chất sự vật… vừa làm chúng méo mó, dị hình trong vỏ bọc ngôn ngữ. Vậy phải chăng, thơ ca ngoài mục đích tải đạo, tuyên truyền, mô phỏng, diễn tả…, nó còn tìm cách đặt tên lại sự vật, định hình lại thế giới. Việc sáng tạo thi ca gần giống trạng thái bàng hoàng của một đứa trẻ lần đầu được nhìn thấy những hiện tượng kỳ lạ của thiên nhiên và khám phá những bí ẩn, phức tạp của con người. Một bình minh vừa rạng, con sâu trong nách lá, hay tiếng thở dài của một thiếu phụ… tất cả hiện lên trong thơ ca luôn tươi non, mới mẻ, như vừa được thấy lần đầu. Cùng một hiện tượng, sự vật đời sống, nhưng chúng hoàn toàn khác nhau trong cách nhìn mỗi nhà thơ. Có bao nhiêu nhà thơ là bấy nhiêu con đường đến với thi ca. Tầm vóc nhà thơ càng lớn dung chứa không gian thi ca càng rộng, càng riêng biệt, cũng như ảnh hưởng, áp lực lên cộng đồng càng mạnh. Nó như bóng cây lớn có thể làm râm mát thảo mộc ở gần. Nhà thơ là người được chọn (tạm gọi Thượng đế chọn), được “ơn gọi” trong tinh thần của Jesus Christ, gặp được “nhân duyên” trong Phật giáo. Là người được may mắn nhìn thấy một thế giới khác, mang hình hài nó, nhưng không phải nó. Gọi tên vẻ đẹp cụ thể nhưng khó nắm bất ấy chính là lý tưởng thi ca mà nhà thơ vươn tới. Vẻ đẹp này không phải lúc nào cũng hiển hiện truớc mắt nhà thơ, mà xuất hiện như một “cơ duyên”, hoặc đột khởi trong những biến động tinh thần con người. Thường được ra đời trong những cơn dư chấn, nên nhiều người đã lầm tưởng thơ ca chính là lòng phẫn nộ, nỗi tuyệt vọng, hay sự quá khích của hưng phấn. Tất cả đều nhầm lẫn và ngộ nhận. Mọi trạng thái tình cảm con người, như mừng, giận, yêu, ghét, buồn, vui, muốn… đều là cái cớ cho thi ca chứ hoàn toàn không phải mục đích. Mục đích của thi ca là tạo lập một từ trường, để trong không gian đặc biệt ấy, tất cả từ đồ vật đến linh hồn đều được cất tiếng nói, được công bằng như nhau trong một trật tự mới. Những hình ảnh hiện lên trong không gian ấy là cánh cửa mở ra tương lại hoặc tìm về với quá khứ, hoặc tất cả cùng đồng hiện và đồng hành trong những thời khắc đặc biệt.

– Ko Hyeong Ryeol:  Trong tham luận gửi tới Ban tổ chức Festival, ông có nêu khái niệm “sáng tạo là phủ định bản ngã, một cuộc vong thân”. Vậy xin ông nói rõ hơn về tính phủ định trong nghệ thuật thi ca?

– MVP: Sáng tạo của nhà thơ hoàn toàn khác với sáng tạo của một nghệ nhân hay người thợ thủ công. Bài thơ vừa viết, tôi quan niệm không thuộc về tôi nữa, mà thuộc về người khác, về đám đông. Với bài thơ này, nhà thơ đã hoàn thành sứ mệnh, xin hãy coi như anh ta đã chết. Nhà thơ muốn tiếp tục tồn tại phải được tái sinh trong một bài thơ khác đang chờ đợi phía chân trời. Đó là cuộc lột xác khác, thêm một lần lên đường, một cú nhảy vượt thoát… Muốn thực hiện được hành trình tiếp theo, nhà thơ phải nhìn thấy lý tưởng thi ca, tức ánh sáng vừa mơ hồ vừa minh bạch đang soi rọi phía trước. Và nhà thơ tư duy và cảm xúc bằng ánh sáng đặc biệt đó. Do vậy, những hình ảnh tưởng chừng quá quen thuộc, từ bóng mây, bước chân, trảng cỏ… đến những đồ vật vẫn dùng, như bàn ghế, bát đũa, sách vở… khi tái hiện trong thơ ca nó được mang một tinh thần khác, tạo nên một thế giới khác.

– Ko Hyeong Ryeol:  Trong bài trả lời phỏng vấn báo Hải Phòng cuối tuần, dịch đăng trên báo Poetry Kit của Anh Quốc ông có nói: “ Bằng những quan niệm tiên tiến, đổi mới quyết liệt trong cách tiếp cận vấn đề, hoà đồng với hơi thở của đời sống đương đại, mỗi nhà thơ như vậy đều có trách nhiệm làm phong phú tính truyền thống”. Ông đồng thời cũng nhấn mạnh quan hệ giữa nội dung và hình thức. Vậy ông đã tìm được nội dung và hình thức mới cho mình chưa?

– MVP: Đổi mới thi pháp không phải như thay đổi mẫu mốt, hay thay bình cho rượu mà chính là “cuộc cách mạng ” giữa nội dung và hình thức. Trong thi ca, hiện thực đời sống đ­ược viết đi viết lại nhiều lần như­ng vẫn giữ nguyên  nội dung , thì đó mới là dạng  chất liệu.   Nội dung   phải là  chất liệu   đã mang một  hình thức   đ­ược xác định và  hình thức   không bao giờ tồn tại độc lập với  nội dung   của chính nó. Hình thức được chuyển hoá thành  nội dung , đó mới là đổi mới thực sự. Nội dung mới trong thơ tôi là những quan tâm mang tính thời đại và thời sự, như lý tưởng sống của thế hệ trẻ, vấn đề ý thức hệ, quan niệm về tự do, công bằng, dân chủ… Tôi đau đáu và trăn trở về đời sống khổ cực của những người dân nghèo đói, khao khát cho dân tộc tôi không thua kém bất kỳ dân tộc nào. Nội dung ấy phải được dung chứa trong hình thức mới của thi ca. Hình thức mới ấy nằm trong nhịp điệu, tiết tấu nhanh trong chuyển động tốc độ của đời sống hiện đại. Cách diễn đạt dứt khoát, tối giản, liên kết rời và xa nhau tạo cho thơ một hơi thở mới, người phương Đông chúng ta quen gọi là “Khí”. Theo tôi, “Khí” làm nên cốt cách thi sỹ và phân biệt được các thế hệ thi ca.

– Ko Hyeong Ryeol:  Ông từng nói “ Rất nhiều những bóng dáng đang loay hoay nằm ì trong bản năng với vẻ mặt coi thường học vấn”. Vậy xin hãy giải thích thêm về “học vấn”?

– MVP: Quan niệm học vấn đối với một nhà thơ không đơn giản như phải có học hàm học vị. Nhà thơ phải tự trang bị cho mình  kiến thức tổng hợp ở mọi lĩnh vực. Nhà thơ, theo tôi phải là nhà văn hoá. Kiến thức văn hoá ấy lắng sâu vào nhà thơ một cách tự nhiên, và tới một hoàn cảnh “hữu duyên” nào đó, nó đột khởi dâng lên thành cảm xúc thi ca. Lúc ấy tứ bài thơ vụt đến bất ngờ, tưởng như “của nhặt được”, nhưng thực ra nó đã được tích luỹ vô tình ở đâu đó đã lâu. Một bóng cây lạ, ngôi nhà lá đơn sơ, một gương mặt… Tất cả tưởng như vô tình thoáng qua, nhưng vào một thời khắc đặc biệt, nó sẽ hiển hiện trong không gian thơ thật riêng biệt và lộng lẫy.

– Ko Hyeong Ryeol:  Câu thơ “ The silent lamp shines even brighter” (Ngọn đèn lặng phắc càng tỏ)trong bài thơ  Tắm đầu năm, theo tôi, dường như tiêu biểu cho phong cách thơ Mai Văn Phấn. Thơ hiện đại đang tìm kiếm sự vận động chống lại cuộc “giao tranh” giữa văn xuôi theo lối “tư bản” và phong cách thơ bảo vệ tính vần điệu truyền thống. Ông có nghĩ rằng sự súc tích trong những bài thơ của ông ở một mức độ nào đó phù hợp với thi ca hiện đại?

– MVP: Về bài thơ  Tắm đầu năm   của tôi, nhà văn Bão Vũ đã viết: là sự tắm ánh sáng trong nỗi cô đơn chơ vơ vào một đêm đầu năm chống chếnh. Ánh đèn xối vào những góc khuất của tâm hồn làm sạch những ngóc ngách. Sự vệ sinh tâm hồn vào đêm đầu năm là sự thanh toán với quá khứ xám ngắt, một sự sám hối.  Cái ánh sáng ấy cũng bồng bềnh hoài thai, sắp sinh nở những điều rực rỡ mà ta đang kỳ vọng…  Ngọn đèn lặng phắc càng tỏ.  Trong hoàn cảnh này, tôi gọi một ai đó, một người bất kỳ, cũng không một tiếng vang, không một sự  hưởng  ứng, nỗi cô đơn tột cùng. Ở đây chẳng có gì ngoài vừng sáng trong sạch và cao quý. Đúng như ông nói: Thơ hiện đại đang tìm kiếm sự vận động chống lại cuộc “giao tranh” giữa văn xuôi theo lối “tư bản” và phong cách thơ bảo vệ tính vần điệu truyền thống. Khuynh hướng cách tân của tôi, là xoá nhoà ranh giới giữa văn xuôi và thi ca. Tôi đã từng thử nghiệm thành công, viết nhiều bài có hình thức văn xuôi, nhưng quyến rũ bạn đọc vào một không gian thơ rộng lớn và thậm phồn. Thơ hiện đại ít chú trọng vào nhịp điệu, tu từ, đặc biệt tránh dùng mỹ từ. Nhưng, những câu văn xúc tích, giản dị được đặt trong một “từ trường thơ”, có sức mạnh thôi miên gấp nhiều lần những câu mang nhịp điệu quen thuộc. Những bài thơ của tôi viết theo cách này, lúc đầu bị bạn đọc phản đối quyết liệt, bởi họ đã quá quen với quan niệm truyền thống. Nhưng thời gian qua đi, những giá trị thi ca đích thực vẫn còn đó. Những giá trị thi ca mới mẻ, thậm chí xa lạ hôm nay sẽ dần chinh phục được bạn đọc và nó sẽ trầm tích thành “truyền thống”. Tôi rất biết sở thích của số đông bạn đọc, nhưng không bao giờ có chủ ý làm thơ để “ve vuốt” sở thích đó. Thơ tôi là ngôi nhà của riêng tôi, truớc hết, ai muốn vào xin hãy gõ cửa và tuân theo những nghi thức nhất định.

– Ko Hyeong Ryeol:  Cảm ơn ông!

(Nguồn: Tạp chí Thi Bình ( Poem and Comment Magazine),  Hàn Quốc, 12/2010),

 Báo Văn Nghệ Trẻ số 1-2/2011, tạp chí Cửa Biển số 113/2011).

Ko Hyeong Ryeol & Mai Văn Phấn

Nguyễn Quang Thiều và Mai Văn Phấn 

cùng hai nhà thơ Hàn Quốc năm 2010

Nguyễn Quang Thiều & Mai Văn Phấn

Tham khảo thêm về tác giả Mai Văn Phấn

Lê Hồ Quang:

Đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn

http://vanviet.info/phe-binh-gioi-thieu/dac-trung-the-gioi-nghe-thuat-tho-mai-van-phan/

Nguyễn Việt Chiến:

Mai Văn Phấn trong cơn say thơ-cách-tân

http://vanviet.info/phe-binh-gioi-thieu/dac-trung-the-gioi-nghe-thuat-tho-mai-van-phan/  

Đà Linh:

Tản mạn vô thức mặt người

http://nguyentrongtao.info/2011/05/14/t%E1%BA%A3n-m%E1%BA%A1n-vo-th%E1%BB%A9c-m%E1%BA%B7t-ng%C6%B0%E1%BB%9Di/

Mai Văn Phấn trên Tạp chí Da Màu:

Thơ viêt nam Đương đại, buổi ra đi và trở về

http://damau.org/archives/11193

Thủ bút nhà thơ Mai Văn Phấn

Website Mai Văn Phấn

http://maivanphan.vn/Default.aspx?sname=MaiVanPhan&sid=32&pageid=397

Dịch giả Lê Đăng Hoan, Nhà thơ Đinh Nhật Hạnh, 

Mai Văn Phấn

Mai Văn Phấn & Đặng Thân

Tô Hoài & Mai Văn Phấn

Họa sĩ Bruce Blanchard, Mai Ngọc Quỳnh, 

Nhà thơ Susan Blanchard &  Mai Văn Phấn

Hiện sống và làm việc tại Hải Phòng Việt Nam

Trở về 

 

Danh Sách Tác Giả

http://phannguyenartist.blogspot.com/2015/10/danh-sach-tac-gia.html

Chân Dung Văn Nghệ Sĩ

https://phannguyenartist.blogspot.com/2017/02/chan-dung-van-nghe-sy-viet-nam-336-z.html

Emprunt Empreinte

http://phannguyenartist.blogspot.com/2011/05/phan-nguyen-oi-loi-cung-cac-tac-gia-va.html

MDTG là một webblog “mở” để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả. 

MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua. 

Email This BlogThis! Share to Twitter Share to Facebook Share to Pinterest

Newer Post Older Post Home
VIRGIL GHEORGHIU

Shoptinhyeu . vn thuoc115 . com bán các loại thuốc chống xuất tinh sớm, yếu sinh lý, thuốc cường dương tốt nhất thị trường

Thuốc viagra mua ở đâu bán ở đâu giá bao nhiêu rẻ nhất ?
Bạn liên hệ theo số điện thoại đường dây nóng bạn nhé
Nhà phân phối độc quyền
Tại TP HCM : 90/12 Cao Thắng, phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại 0928080808
Đại lý cấp 1 tại Hà Nội, miền Bắc : 243 Định Công Thượng, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại : 0936700000
Đại lý số 2 : 13 B10 mặt phố Phạm Ngọc Thạch, Quận Đống Đa, TP Hà Nội (nằm giữa ngã ba Phạm Ngọc Thạch với Lương Đình Của và Xã Đàn)

website :
shoptinhyeu . vn
thuoc115 . com
giaosutinhyeu . com