xem phim hài 18+

Nhi ề u  N ữ  Vi ệ t Nam vang danh th ế  gi ớ i

World-known Vie tnamese WOMEN

 

Nữ lưu thế hệ thứ hai người Việt tỵ nạn vang danh thế giới và tại Hoa kỳ

 NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ NỔI DANH TRÊN NƯỚC MỸ VÀ  THẾ GIỚI, GỐC VIỆT

Nữ Khoa Học gia Dương Nguyệt Ánh.                                             

Bà Elizabeth Phạm

Bà Elizabeth PhạmPhi công cuả Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ  vừa mới đuợc vinh thăng thiếu tá.  Bà là phi công lái máy bay F-18,  phi cơ tối tân nhất hiện nay của Quân Lực Hoa Kỳ. Thân phụ của bà là một cựu bác sĩ quân y QLVNCH, thân mẫu của bà cộng tác đắc lực trong hội hậu phương ủng hộ tiền tuyến tại địa phương cư ngụ, thành phố San Diego. Đó cũng là căn cứ gốc của thiếu tá Elizabeth Phạm .

Sau khi tốt nghiệp đại học, vị nữ sĩ quan này đã gia nhập Không Quân; bà đỗ thủ khoa trong khóa học đáp xuống hàng không mẫu hạm, thử thách lớn nhất cho mọi phi công.Bà đã phục vụ tại lực lượng tiền phương vùng Thái Bình Dương, chiến trường Trung Đông, đặc biệt là tại Iraq, tăng cường hỏa lực, yểm trợ tại mặt trận cho lực lượng TQLC Hoa Kỳ trong các chiến dịch tại đó.Sau một thời gian phục vụ tại Bộ Quốc Phòng tại vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn, nhiệm vụ mới của tân thiếu tá Elizabeth Phạm sẽ là phi công trong lực lượng ứng chiến thường trực tiền phương của Quân Lực Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương, căn cứ tại Nhật Bản với hàng không mẫu hạm.

HQ Đaị tá Nha sĩ Tran Ngoc Nhung

Gia nhập ngành Nha khoa Hải quân Hoa Kỳ năm 1989 trước khi hoàn tất văn bằng Bác sĩ Nha khoa năm 1990. Trước đó cô có ý định gia nhập Thuỷ quân lục chiến, nhưng TQLC không có ngành Nha khoa ! Được thăng cấp Thiếu tá năm 1996, Trung tá năm 2003, Đại tá năm 2009.Hiện nay HQ Đại tá Nhung đang phục vụ tại Denbn Naval Dental Center Camp Pendleton, CA. 

HQ Đại tá Nhung cũng là một trong những Đại tá gốc Việt hội đũ các điều kiện để có thể được chọn thăng cấpPhó đề đốc Nha sĩ Hải quân Hoa Kỳ.

HQ Đại tá Nha sĩ Tran Ngoc Nhung “ngồi” và 

HQ Đại tá Nha sĩ Thu Phan Getka “đứng”.

Đại tá Bác sĩ Không quân Huynh Tran Mylene

Giám đốc chương trình Y khoa Quốc tế Không quân Hoa Kỳ – Director of The Air Force International Specialist Program.

                                 

Đại tá Bác sĩ Không quân Huynh Tran Mylene.

Nữ khoa học gia Vật lý thiên văn Jane X. Luu ,   Nổi tiếng nhất Việt Nam và thế giới, có tên Việt đầy đủ là Lưu Lệ Hằng , viết trong hồ sơ ở ngoại quốc là Jane X. Luu. Còn trẻ nên hẳn có thể xưng hô thân mật là cô Hằng hay chị Lưu.

Ra đời 5 năm, Giải thưởng Kavli  đã trở thành giải thưởng quốc tế lớn; được xem là một “Nobel Thiên văn học”.  Vừa mới đây, chủ nhân của giải này năm 2014 đã được chọn, điều này gợi nhớ về một người phụ nữ Việt Nam xuất chúng năm 2012 đã sở hữu không chỉ một Giải Thiên văn học là “Nobel thế giới”, mà còn cả một “Nobel Phương Đông” nữa.

Đ ó là n iềm tự hào của người Việt h ải ngoại!!

Sinh năm 1963, mang dòng máu cả cha và mẹ xứ Bắc, lớn lên và học tiểu học ở miền Nam, năm 1975 sang Mỹ và hoàn thành học vấn ở các trường nổi tiếng: 1984 nhận bằng Cử nhân Vật lý thủ khoa tại Đại học Stanford, bằng Thạc sĩ Cao học tại Viện Berkeley thuộc Đại học California và cuối cùng, năm 1990 bằng Tiến sĩ Vật lý Thiên thể ở Viện Công nghệ Massachussetts MIT.       

 Với tư chất thông minh và nghị lực bẩm sinh, niềm say mê và điều kiện học tập, nghiên cứu hàng đầu thế giới, các kết quả học tập và nghiên cứu xuất sắc đạt được trong quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu Cao học và Tiến sĩ đã đưa tên tuổi nhà khoa học Jane X. Lưu nổi tiếng như một một phụ nữ trẻ thông thái với một khối kiến thức rộng lớn cổ kim về bầu trời vô hạn gần xa, đặc biệt đã đi tiên phong trong những phát minh đặc sắc lớn và hiện đại nhất, mở rộng tầm nhìn của loài người về những chân trời bao la, rất xa.

Và chính những thành tựu lao động sáng tạo đó đã mang lại cho Lưu Lệ Hằng những giải thưởng danh giá, đồng thời đưa chị lên những bậc thang danh giá, đặc biệt đối với môt phụ nữ gốc nước ngoài, trong sự nghiệp giảng dạy đại học là Giáo sư ở Đại học Havard, Mỹ (1994 – 1998) và Đại học Leiden, Hà Lan (1998 – 2001) và trong sự nghiệp nghiên cứu khoa học là nghiên cứu viên cao cấp danh dự ở các địa chỉ danh tiếng lớn như các Phòng Thí nghiệm ở Đại học Havard, Viện Khoa học Khảo sát Không gian ở Đại học Hawaii, các Trung tâm nghiên cứu thuộc Viện Công nghệ Massachussetts MIT…

Phát triển nhận thức Thái Dương Hệ 

Đên bây giờ đó là sự nghiệp lớn nhất của nhà khoa học nữ Lưu Lệ Hằng. Sự hiểu biết của nhân loại về Hệ Mặt Trời (hay Thái Dương Hệ) đã thay đổi rất nhiều mang tính cách mạng trong vài chục năm qua. Và nhà bác học nữ họ Lưu không những nắm vững nhanh chóng kiến thức phong phú thu thập được trong nhiều thế kỷ qua về Thái Dương Hệ mà chính chị đã đóng góp vào kho tàng đó bằng những phát minh đặc sắc làm thay đổi nhận thức của con người về không gian vũ trụ bao la mình đang sống.

Khoảng mươi năm trước, cấu trúc của Hệ Mặt Trời Dương Hệ vẫn còn được hình dung đơn giản so với bây giờ

Cấu tạo Thái Dương Hệ.

Thái Dương Hệ được mô tả là một hệ các hành tinh, Mặt Trời nằm ở chính giữa và bao bọc bên ngoài bởi 9 thiên thể chịu sức hút của Mặt Trời, gồm 8 hành tinh chính và 1 hành tinh “phụ”, hợp thành 3 nhóm.

 

Nhóm I ở vùng trong cùng, gồm 4 hành tinh nhỏ: Thủy tinh (Mercury), Kim tinh (Venus), Trái đất (Earth) và Hỏa tinh (Mars), đây là những hành tinh nhỏ, rắn chắc, cấu tạo chủ yếu bởi các loại đá và kim loại, có mật độ cao và thành phần tương đối giống nhau nên có tên gọi là nhóm các hành tinh đá.

 

Nhóm II ở vùng ngoài, gồm 4 hành tinh khí khổng lồ có khối lượng lớn hơn rất nhiều so với 4 hành tinh nhóm I. Trong đó, 2 hành tinh lớn nhất, Mộc tinh (Jupiter) và Thổ tinh (Saturn), có thành phần chủ yếu từ heli và hyđrô; và hai hành tinh nhỏ hơn, Thiên vương tinh (Uranus) và Hải vương tinh (Neptune), có thành phần chính từ băng (như nước, amoniac và mêtan). Chúng có kích thước rất lớn nhưng mật độ thấp và vì vậy có khi còn được gọi là phân nhóm các hành tinh băng đá “khổng lồ”.

 

Nhóm III trong nhiều năm trước được cho rằng chỉ có một mình Diêm vương tinh (Pluto). 

 

Nhận thức về cấu trúc Thái Dương Hệ như trên cho tới cuối thế kỷ 20 đã tỏ ra chưa đầy đủ, chưa giải thích được tất cả thông tin do các thiết bị khảo sát thiên văn hiện đại thu thập được. Lưu Lệ Hằng đã nhập cuộc vào chính giai đoạn này bên cạnh nhà nghiên cứu thiên văn bậc thầy David Jewitt ngay trong thời gian làm nghiên cứu sinh bậc Cao học và bậc Tiến sĩ Vật lý Thiên văn. Cả hai người chính là chủ nhân và là nòng cốt thực hiện đề tài nghiên cứu về một hướng khoa học mới mẻ và táo bạo – Khảo sát các vật thể di chuyển chậm (Slow-Moving Objects) ngoài Hệ Mặt Trời.

 

Họ tiến hành nghiên cứu chứng minh cho sự tồn tại một vành đai gồm một “rừng” vô số hành tinh lớn bé phân bố từ bên ngoài quỹ đạo của Hải Vương tinh (Neptune), vượt qua Diêm vương tinh (Pluto) và ra xa hơn. Vành đai này có tên là vành đai Kuiper (Kuiper Belt) do hai nhà thiên văn Edgeworth và Kuiper đặt ra trong tưởng tượng từ giữa thế kỷ 20. Miệt mài 5 năm làm việc, sử dụng các phương tiện nghiên cứu tiên tiến nhất ở Trung tâm nghiên cứu MIT và Đại học Harvard, ở các cơ sở thiên văn Kitt Peak (thuộc Arizona) và Mauna Kea (thuộc Hawaii), năm 1992 Jewitt và Luu tìm ra được thiên thạch đặt tên là 1992 QB1 có đường kính 280 km (bằng 1/8 Diêm vương tinh hay Pluto). Và tiếp theo là hàng chục khám phá nữa của bản thân nhóm nghiên cứu này và hàng trăm khám phá khác của đông đảo cộng đồng thiên văn trên toàn thế giới.

 

Tất cả đều chứng tỏ ở không gian bên ngoài quỹ đạo của Hải vương tinh (Neptune) tồn tại các vật thể lớn bé có thành phần cấu tạo nhẹ như nước, amoniac, mêtan. Đó là hàng nghìn thiên thể nhỏ bé có kích cỡ khác nhau, từ sao chổi, centaurs đến bụi liên hành tinh. Trong số đó có 5 thiên thể nhĩnh lên về kích cỡ, là Ceres, Haumea, Makemake, Eris và cả Pluto (Diêm vương tinh) nữa. Các hành tinh này, dù được coi là đủ lớn để có được dạng hình cầu dưới ảnh hưởng của chính lực hấp dẫn của mình, nhưng do độ xốp cao (mật độ vật chất rất thấp) hay tổng khối lượng vẫn bé nhỏ, nên kể từ tháng 8 năm 2006 nhóm các hành tinh này được mang tên là nhóm hành tinh lùn. Nhóm “lùn” này chính là nhóm III trong sơ đồ cấu trúc Thái Dương Hệ (hình 2) mà trước đây chỉ mới biết một mình Diêm vương tinh Pluto.

 


VIRGIL GHEORGHIU

Shoptinhyeu . vn thuoc115 . com bán các loại thuốc chống xuất tinh sớm, yếu sinh lý, thuốc cường dương tốt nhất thị trường

Thuốc viagra mua ở đâu bán ở đâu giá bao nhiêu rẻ nhất ?
Bạn liên hệ theo số điện thoại đường dây nóng bạn nhé
Nhà phân phối độc quyền
Tại TP HCM : 90/12 Cao Thắng, phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại 0928080808
Đại lý cấp 1 tại Hà Nội, miền Bắc : 243 Định Công Thượng, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại : 0936700000
Đại lý số 2 : 13 B10 mặt phố Phạm Ngọc Thạch, Quận Đống Đa, TP Hà Nội (nằm giữa ngã ba Phạm Ngọc Thạch với Lương Đình Của và Xã Đàn)

website :
shoptinhyeu . vn
thuoc115 . com
giaosutinhyeu . com

xem phim hài 18+

Gặp Lại Kịch Tác Gia Hoàng Như Mai Ở Tuổi 93.

Thế Phong Bấm chuông nhà số 4…/ F.) Trần Quốc Tuấn, quận Gò Vấp (ngoại vi tp. HCM) – một phụ nữ ra mở cửa.

Cuộc thăm đột ngột , không hẹn, mà trước đó 2 ngày- trong bữa ăn sáng ở Tân Định, một vị nhắc tới Hoàng Như Mai – đại khái lần tới thăm, ông bị ốm , nằm co quắp tại lầu 1, vẫn  nói chuyện tiếp khách rôm rả. Đó là chị  Y. – nói về Hoàng Như Mai, chị thật có lòng ưu ái, kính trọng” thầy cũ”.

Vào nhà, đứng đợi ở phòng khách dăm phút, chủ nhà “ đi từng bước, bước chẳng đi” dọc theo cầu thang, từ lầu 1 xuống.

(…nhớ lại, tôi đã tới căn biệt thự trệt này 1 lần- đáp lễ – sau lần tác giả đích thân đem tập kịch mới in xong” Tiếng trống Hà Hồi” (1) đến nhà tặng. Buổi ấy, ông  mặc bộ” com lê” xám, xúng xính lội bộ từ đầu hẻm đường Trần Khắc Chân vào nhà. Tài xế xe hộp đậu phía ngoài đường chờ,-sau mới biết tác giả mới nhận làm hiệu trưởng “ Trung học Tư thục Trương Vĩnh Ký” ở quận Tân Bình).

       

Nhìn thấy chúng tôi, ông lại dừng bước ở phân nửa cầu thang, lại giương đôi mắt lạ lẫm phóng về hai người khách – hình như chưa từng gặp bao giờ. Nửa như không muốn tiếp, điều này cũng  phải thôi- Saigon  bây giờ lắm loại’ cướp ngày” đột nhập”- đề phòng là tự bảo vệ  tốt nhất.

Tự giới thiệu:

”… tôi là Thế Phong, 16, 17 năm trước từng họp ở 42 Yết Kiêu Hà Nội cùng anh và  một số nhà văn Pháp, do Đại sứ quán Pháp tổ chức “ Les Temps des Livres” –  và đây  anh Lữ Quốc Văn,  bạn tôi – người từng chụp chân dung anh nhiều’ pô” tuyệt đẹp tại sân bay Tân Sơn Nhất năm nào…

Vẫn như gặp khách lần đầu, tôi hơi ngượng, cảm thấy sự tới thăm này không nên có, và không phải” đạo” chút nào.

Tôi giữ im lặng nghe Hoàng như Mai nói chuyện với bạn tôi.

Riêng tôi nhớ lời chị Y nói:

-….“Thầy M. thật tội, hai con gái đã lập gia đình rồi bỏ chồng. Hiện ở với một đứa con :” bố sai đi mua thuốc tây, chìa tay hỏi ”  tiền đâu hở bố” ?!

Lữ Quốc Văn vào chuyện:

-… lần tôi về Hà Nội cũng khá lâu rồi, tôi  từng gặp Hữu Loan, Phùng Cung, Hoàng Cầm, Trương Tửu…( buổi sinh thời, có thơ, sách tặng, nói chuyện văn chương, thế sự thân mật, rôm rả.)  Biết tôi từ miền Nam  ra, và tin cậy, dù lần đầu gặp, cụ trút tâm sự chuyện thành lập” Nhóm Hàn Thuyên”. Sở dĩ mới Nguyễn Đức Quỳnh, vì người  anh vợ có nhà in , lại không biết làm sao có việc làm, như cần phải mở một  nhà xuất bản chẳng hạn. Lúc cuối đời, cụ Trương Tửu “ xin cưới môt cô em vợ ” – cô ấy đã nuôi cụ Tửu cơm áo, săn sóc bệnh tật -, nhưng không thành, vì con cả ( Nguyễn Bách Khoa ) không thuận, ,…. và  vì sợ bị chia gia tài.…

Chủ nhân  nghe xong, bày tỏ:

–     Sau vụ Nhân văn Giai phẩm , tôi nhớ ” thầy  Trương Tửu về nhà, nói là dịch sách cho Nxb Giáo dục, ông Trần ĐứcThảo về Nxb Sự thật , ông Đào Duy Anh về Viện Sử học . Sau này, thầy  Trương Tửu bỏ việc, không nhận công tác, về nhà  châm cứu … Còn thầy  Nguyễn Mạnh Tường, thì tôi  là học trò có rất nhiều “kỷ niệm….. “…

–     Tôi nhớ ra ngay- một đoạn văn nhắc chuyện” thầy  Hoàng Như Mai “:…

–     ”.. sau 1954,  thầy  Mai” học trò ngỗ nghịch của thầy Nguyễn Mạnh Tường “ (  Mai Sơn   / báo” Văn  nghệ Nghệ An “) –

–     ….tới khi đã làm” thầy” rồi, “ cũng bắt chước thầy Tường, hai tay thọc vào túi quần giảng  bài”… ….( không nhớ rõ nguồn , ai đã kể  ?

–     Giáo sư Hoàng Như  Mai có nhiều thế hệ học trò: giáo sư, phó giáo sư., tiến sĩ, phó tiến sĩ, nhà văn, nhà báo, nhà văn học nổi tiếng.

–     Thời đoạn 1958-59 có một học trò  xuất sắc ( Hà Nội không dùng “ sinh viên ” ) tên Lê Phong Sử- và sau trở thành giáo sư Phong Lê: ( còn là tác giả nhiều tác phẩm biên khảo văn học  ).

–     …. nghe lời giảng của thầy Mai tôi thấy yêu nền văn học mới, và có lẽ đó là một trong các lý do khiến tôi về Viện Văn học…năm  1960….”

sau 1975,  một học trò khác lớp sau, TS Võ  Văn Nhơn ( Trường Đại học KHXHNV tp. HCM ) viết:

–     :”…những bài giảng của thầy rất thuyết phục, bởi với tư cách là người trong cuộc, với giọng đọc thơ rung rung truyền cảm.. của Chính Hữu ( Ngày về), Nhà tôi (Yên Thao), Tây Tiến ( Quang Dũng)…, Các  nhà văn đồng thời với thầy như Nguyễn  Tuân, Vũ Hoàng Chương …  như hiện ra trước mặt tôi bằng xương thit”

(   trích từ  –  in chữ đậm- Đ.B.B. )

-…điều này, ‘ cậu thầy con bây giờ ”  bốc” ông thầy lớn khi xưa  ” hơi” lố” .- bởi  tác giả  Hoàng Như Mai chưa từng bao giờ được các nhà phê bình văn học ( trong và ngoài nước  ) xếp hạng’” đồng lứa, đồng sáng  ” với  Nguyễn Tuân và Vũ Hoàng Chương cả ?!”

-…văn sĩ Nguyễn Tuân và thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã rất nổi tiếng trong làng văn  tiền chiến từ thập niên 40, có nhiều tác phẩm xuất bản  –  thì lúc này – 2 “ lính mới  trẻ nhất  “mới đầu quân gia nhập “Hàn Thuyên ”. (1940- 41)..

– Một,  Nguyễn Trần Huân ( sau này giảng dạy ở Sorbonne  ( Pháp) và viết sách chung với Maurice M. Durand, in trong” Collection UNESCO” ).

– Hai,  Hoàng Như Mai ( đầu thập niên 1950 mới xuất bản tập kịch ngắn”Tiếng trống Hà Hồi”   – và làm công tác giảng dạy ( Hiệu trưởng trường Trung học Phan Thanh , giáo sư trường Đại học Tổng hợp  tp.HCM  vv..)

( … Dans la période 1941-45  il ( Hoàng Như Mai) a collaboré au goupe Hàn Thuyên en prenant le nom de plume NHƯ MAI ..” ( trang 188 – Contribution à la littérature vietnamienne par M.M. Durand & Nguyen Tran-Huan  –  Paris 1969 .).

–     Tiếp, lại được nghe Lữ Quốc Văn nhắc tiếp chuyện Trương Tửu và Nguyễn Đức Quỳnh và nhóm” Hàn Thuyên”….

–     ….. tôi hiểu  ra ngay -Trương Tửu  muốn phủ nhận  vai trò” chủ bút  tạp chí Văn Mới  ‘,  và chính  N.Đ Quỳnh chủ soái từng kể cho nghe “ Trương Tửu  cũng có một” vị trí ngầm” đáng kể” trong nhóm Hàn  Thuyên . “Chẳng hạn chuyện Nguyễn Công Tiễu ( anh rể T.Tửu ) – bỏ vốn mở nhà in trên phố Tiên Tsin- nhờ danh và tiếng Nguyễn Đức Quỳnh, thì  Nxb Hàn  Thuyên  mới chào đời –  nhờ sự tin cậy của “ ông trùm Cousseau ” ( đã cho phép, còn cấp” bông giấy  báo ” dư in Tạp chí” Văn Mới”, và sách  in của nhà  xuất bản . “ Bông   giấy báo “ còn là một” áp lực” đè lên đầu cổ các vị chủ nhiệm,(ai biết được hợp đồng ngầm giữa chủ báo và nhà đương quyền để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt nào đó. Tệ lậu “ bông giấy báo” còn được kéo dài, từ 1950-1954 ở vùng Báo chí Quốc gia miền Bắc), và Việt Nam  Cộng Hòa ( từ 1954- 75).

–     Bới thế, Trương Tửu mới nẩy sinh đôi chút đố kỵ chăng, hay tự đặt ý tưởng bon chen trong đầu: “ tại sao đầu tầu HànThuyên không phải ta, mà  là Quỳnh ?”  (đây chỉ là giả thiết  người viết).

–     Thời kỳ này thực dân Pháp bị chia quyền – giai đoạn từ 1940 trở đi – Quân đội Phát xít Nhật  đem quân vào Đông dương – giữa khi ấy thì Cousseau Giám đốc Nha báo chí Tuyên truyển  Bắc việt, lại chỉ tin cậy N.Đ. Quỳnh vào vai lãnh đạo Hàn Thuyên.

–     Cũng thời kỳ này, bộ truyện tiểu thuyết, gồm 3 tập :” Thằng Cu So”,” Thằng Phượng”,” Thằng Kình”,  đâu đó trên dưới 1000 trang được xuất bản ( 1941, 1942), gây một  dư luận văn chương, từ tiền đến hậu chiến; mà sau này còn ảnh hưởng mãnh liệt tới một lớp nhà văn trẻ miền Nam sau 1954 Ông không chỉ là một tiểu thuyết gia viết trường thiên, còn là nhà biện luận sắc sảo.

–     Tôi từng tham dự, chứng kiến ông điều hợp một buổi tham luận chính trị, văn nghệ ở Nhà hàng Thanh Thế Saigon (  tháng 12 / 1954- gồm các” tay tổ chính khách, văn nghệ’ đủ phe phái tham gia. Cuộc tranh luận thật sôi nổi, tưởng chừng chẳng ai chịu nhường ai, đến hồi kết, chỉ cần ”, một tay lập thuyết” Vượt Mác”

–     ( đăng dở dang trên tuần san “ Đời Mới ”- Trần Văn Ân chủ nhiệm ”) đã xoa  dịu tất cả khách tham dự, họ bắt tay nhau trong niềm hân hoan, hỉ hả thật sự ký vào biên bản cuối cùng..”  Ông  Nguyễn Đức Quỳnh như được” công kênh” trong đám đông buổi họp hôm ấy  ! “, một người phát biểu vậy.

–     Sau này, chính khách kiêm chủ báo” Đời Mới ”  Trần Văn Ân tiến cử chủ bút Nguyễn Đức  Quỳnh nhập vai Cố vấn “bộ ba Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên  hợp nhất-“(   cuối 1954- đầu 1955).  Rồi Bình Xuyên tan rã, chủ nhiệm Trần Văn Ân đi “ tù ”, vì trực tiếp tham gia cố vấn  Bình Xuyên. Người tù chính trị ấy sau được bạn thân –Hoài Đồng Vọng  ( Nguyễn Đức Quỳnh ), tác giả “ ai có qua cầu ” dành riêng hàng chữ “ bản riêng  cho Tr.V. Â ”.

–     Ít lâu sau, chủ nhiệm tạp chí” Sống ” kiêm Trưởng ban chống đảo chính( 1960) – nhờ” cố vấn báo chí  Cung Phúc Chung ( bút hiệu khác Nguyễn Đức Quỳnh ) chuyển  lời  mời ‘ một nhóm  văn nghệ sĩ”  từng tham dự” Đàm trường viễn kiến ” vực  tạp chí” Sống ”  ngoi lên ‘ hạng đầu đàn trong làng báo ”…Hai vị trưởng và phó ban Chống Đảo chính 1960 có tuyên ngôn đăng trên tạp chí” Sống ”( Ngô Trọng Hiếu chủ nhiệm).

–     Dẹp loạn” đảo chính 1960 ” xong – ông Phó  Ban chống Đảo chính, trung tá Nguyễn Văn Châu trở thành chủ nhiệm nhật báo Tiếng dân , trụ sở đặt tại 2 bis Hồng thập Tự, Saigon ( tiền thân nhật báo “ Tiền tuyến ” sau này ) .

–     Trưởng ban chống Đảo chính, ông Ngô Trọng Hiếu tham chánh nội các mới Tổng thống Ngô Đình Diệm, với chức vụ Bộ trưởng bộ Công dân vụ, trụ sở đặt tại  272 đường Hiền Vương,  Saigon  3..

–     (cố vấn chính trị Bộ trưởng vẫn là  chủ soái “Đàm trường viễn kiến:” vẫn là Nguyễn Đức Quỳnh. ( điều này đã làm nhức nhối, chút ghen bóng gió  từ Cố vấn Ngô Đình Nhu, bên cạnh Tổng thống Diệm với Cố vấn Nguyễn Đức Quỳnh, bên cạnh Bộ trưởng Hiếu – chức vụ ngầm”  thế lực hơn cả chức vụ chính thức được bổ nhiệm in trong “Công báo ” ).

–     Cùng đọc thêm một” phóng sự, tư liệu ”  thuật chuyện xưa :” Ba anh Trương Tửu, Thượng Sỹ, Nguyễn Đức Quỳnh do anh Nguyễn Hữu Đang hướng dẫn, lên Bắc Bộ phủ để yết kiến cụ Hồ Chủ tịch.’  vào 1945 . (2) – để thấy bản lĩnh  chính trị “ tả đối lập ” của một Nguyễn Đức Quỳnh ( 36 tuổi) , bày tỏ trước Chủ tịch Chính phủ lâm thời. (2).

–     Nguyễn Đức Quỳnh qua đời vào 6-6-1974, tạp chí Văn  số đặc biệt- Trần Phong Giao “chạy xin bài văn  hữu bạn bè có, đệ tử có, quen, không quen, cũng có  – nói chung chỉ” phe ta” mà thôi  “-  góp mặt bầy tỏ cảm tưởng trước” cái chết lãnh tụ nhóm Hàn Thuyên  ( xưa ) , ” Đàm trường viễn kiến ”( nay).

Tưởng niệm chủ soái Nguyễn Đức Quỳnh ;

– Nguyễn Mạnh Côn :” Ông  Quỳnh mất là chấm dứt một thế hệ người theo đuổi mộng tưởng  vĩ đại ),

– Thái Tuấn “Cái chết của anh Quỳnh là một thiệt thòi lớn cho những người mới làm văn nghệ và  cho những người làm văn nghệ thất bại ).,

– Vũ Hoàng Chương:.Tôi rất xúc động . .Với riêng tôi, anh  Quỳnh nằm xuống hơi sớm. Được tin anh đau nặng, tôi đang định đến thăm anh, như năm 1970, anh đã đến thăm tôi trên giường bệnh.. Tôi chưa kịp đi, anh đã vĩnh biệt mọi người  ” ),

– Phạm Duy: Từ 25 năm nay , vợ chồng chúng tôi lúc nào cũng coi anh Quỳnh như một người anh ruột. Chính anh làm mối chúng tôi lấy nhau. Biết anh đau phải mổ nhiều lần, chờ chết, nên cái chết của anh không làm tôi ngạc nhiên. Chúng ta khó có được một người như Nguyễn đức Quỳnh. Anh có tình với mọi người, chịu đựng hết thảy anh em. Anh là chất xúc tác cần thiết 

( élément catalyseur) để những người văn nghệ gần nhau. Anh  mất, cái đáng tiếc nhất là điểm đó ,

– Mặc Đỗ : mất một người Việt Nam  có gốc Việt chắc chắn và có kiến thức rộng hơn vòng chân  trời), ,

– Vũ Khắc Khoan: đối với tôi hình ảnh Nguyễn Đức Quỳnh cũng là hình ảnh của “ thằng Kình” . Bây giờ thằng Kình đã nằm xuống mà trận đá banh lại vẫn còn tiếp tục  .

-Thanh Nam: Mỗi lần nghĩ tới anh Quỳnh, tôi nhớ lần đầu tiên được gặp anh. Đó là đầu năm 1953 ” tại Hà Nội. Hồi đó, anh Quỳnh mới về. Tôi và Nguyễn Minh Lang được anh Nguyễn Văn Hợi, giám đốc nhà xuất bản Thế Giới đưa đến gặp anh Quỳnh.  Nguyễn Minh Lang vừa cho xuất bản cuốn tiểu thuyết “ Tình tuyệt vọng”. Còn tôi, nhà Á Châu cũng vừa cho phát hành cuốn tiểu thuyết “ Cuộc đời một thiếu nữ”. Khi gặp anh, tôi không hề nghĩ là anh đã đọc văn của mình và cũng không dám nói chuyện văn chương với anh. Nhưng chúng tôi không khỏi sửng sốt khi thấy anh Quỳnh đề cập   tới ( sic)  hai cuốn tiểu thuyết kia và nói tới từng chi tiết một, chứ không phải là nói phớt qua, để lấy lòng 2 đứa đàn em. Anh đưa cuốn sách ra và chỉ cho tôi thấy từng đọan viết sai, viết láo của tôi. Chưa bao giờ tôi thấy xúc động trước một nhà văn đàn anh như lần đó….”

(vv…)

– Chân dung cuối cùng Nguyễn Đức Quỳnh, do Chóe hí họa khá độc đáo.( vừng trán rộng phẳng lì như cánh đồng không còn lúa, một mắt sâu hoắm, râu mép quấn miệng thép, và cây bút sắt có một đầu ngọn đuốc làm đòn gánh đôi thúng văn chương chữ nghĩa- dưới có hàng chữ” ng.hải chí / 1974).

–     với tôi, ấn tượng, chân thành, ngưỡng mộ Nguyễn Đức Quỳnh một cách tuyệt đối – vẫn chỉ một Thanh Tâm Tuyền:

–     “…Ngày sau tôi sẽ làm một tên lính… làm tên lính tiên phong, làm tên lính cảm tử ở trong bất cứ nghề gì. Tôi không rõ bao nhiêu người đọc văn Nguyễn Đức Quỳnh và tôi cũng không rõ trong những người đã đọc bao nhiêu đã bị chấn động và đến nay vẫn còn nghe  vang vọng trong lòng. (….) Cùng với Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Thằng Kình là quyển tiểu thuyết quan trọng đối với tôi. Đó là cuốn sách đã vỡ lòng, đã mở mắt, đã đưa tôi vào đời. Tôi đã nếm được mùi sung sướng và vị đắng cay khi đọc quyển sách ấy. Tôi đã gặp một ngọn lửa đốt cháy tôi – ngọn lửa của đời sống..(…)… Tôi không nói yêu, không nói ( mà)  tôi ngưỡng mộ …”

–     ( Thanh Tâm Tuyền –  trang 21-22, tạp chí Văn / Saigon 1974 ).

–     và giờ này –  kịch tác gia Hoàng Như Mai quay sang phía tôi – bình luận:

–     …sách anh viết về Nguyễn đức Quỳnh, tôi đã đọc, và xếp riêng trong tủ. Anh Nguyễn Đức Quỳnh là một …..

–     Hai ý nghĩ lập tức  lóe lên trong tôi :

–     1 ) nhà văn trẻ Từ Ngọc  ( trước năm 1940 ) và cây bút trẻ Như Mai  ( sau năm 40 ) có một điểm giống nhau – họ đều khởi nghiệp “văn chương ban đầu”-  rồi nửa đời đứt đoạn, cả hai lại” thành đạt vẻ vang, đứng hàng đầu ngành giáo dục Việtnam “( miến Bắc ). (3)

–     2) kịch-tác-gia Hoàng  Như Mai , vừa học trò cũ giáo sư Quỳnh ở Trường Pasteur Hanoi vừa cộng sự viên Hàn Thuyên ( Như Mai),  với nhận xét khẳng định cuối đời :.” …anh Nguyễn Đức Quỳnh là một kẻ cơ hội đã làm hỏng Hàn Thuyên! “.

–     ( với tôi – chỉ một Hoàng  Như Mai đã hiểu rất đúng –   hay đúng – chưa  hiểu đúng  mà thôi )

–     [].

–      

–      

Saigon , 7- 9 tháng 3/ 2011-( bài tu chỉnh).

Chú thích 1 :

–     “Tiếng trống Hà Hồi” Nxb  Trẻ 2001  ( tp HCM) , tập kịch ngắn, in lần đầu  500 cuốn, khổ  14,5 x 20,5 cm, 168 trang, giấy trắng, không đề giá bán.

–     Bìa  : họa sĩ Việt Hải.

–     Phụ lục gồm:

–     Nguyễn Tường Phượng: ” Thay lời tựa – Tiếng trống Hà , kịch 3 màn của Hoàng Như Mai“ Hoa Quỳnh kịch xã” trình bày( trích báo Tia sáng – Hà Nội”),

–       Thế Phong : “……Tại sao ” Tiếng trống Hà Hồi” là vở kịch tượng trưng đã thành công ?…” ( trích báo” Giáo dục phổ thông”, Saigon  1960 ).

–     Thương Sỹ : “ Phê bình buổi Đại hội văn nghệ” Tiếng trống Hà Hồi”, kịch 3 màn của Hoàng Như Mai, do” Hoa    Quỳnh Kịch xã” trình  diễn., trích báo” Tia sáng-  Hà Nội 1951).

–     Maurice. M. Durand &  Nguyen Tran-Huân  với vài hàng tiểu sử  Hoàng Như-Mai ( trích “Dictionnaire Biographique des Auteurs” ( avex Index des noms propres cités dans le texte”trong cuốn” Introduction à la litterature vietnamienne/ Maurice M. Durand & Nguyen Tran-Huan – Collection UNESCO, Paris 1969,trang 188. ( bản  này ghi Hoàng Như Mai sinh 1918).

–      và  một  bản  tiểu sử khác do chính tác giả viết –  in  ở trang bìa 4 ” Tiếng trống Hà Hồi”:

HOÀNG NHƯ MAI  .

Sinh năm 1919. Quê quán: Hà Nội

Trước 1945 : học Cao đẳng Luật khoa – dạy học trường tư.

Sau 1945: Viết báo, viết sách ở Hà Nội.

Tham gia đoàn kịch Độc Lập, đi “Nam  tiến”

Diễn kịch tuyên truyền kháng chiến.

Tổng thư ký Hội Văn hóa kháng chiến tỉnh Hưng Yên,

hoạt động trong Đoàn kịch. Văn hóa Kháng chiến Khu Ba.

Từ 1949: Làm công tác giáo dục:

Hiệu trưởng các trường trung học Phan Thanh ( Thái Bình),

Sư phạm Việt Bắc, Sư phạm Trung cấp Hà Nội.

Giáo sư trường Đại học Tổng hợp tp. HCM.

Chủ tịch  Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học tp. HCM.

Tác phẩm :

-Trần Hữu Trang- soạn giả ca kịch cải lương ( nghiên cứu, 1982)

-Nhận định về cải lương ( 198

-Giới thiệu sân khấu cải lương ( 1986)

-Thơ một thời ( 1989)

-Trí thức và nghệ sĩ ( 1989)

-Tìm hiểu bản sắc dân tộc trong thơ Chủ tịch Hồ Chí Minh ( 1998

Sáng  tác:

-Trao cho nhau cuộc đời ( thơ, 1993)

-Hồi ức và suy nghĩ về văn hóa giáo dục ( 1998)

-Chân dung và tác phẩm ( 1999 )

vv..

Chú thích 2::

“… 5 giờ chiều 7/9/1945, ban quản trị lâm thời đoàn văn hóa Bắc Bộ đang họp tại nhà văn hóa ( hội Khai trí Tiến đức cũ) thì có tin điện thoại của bộ Ngoại giao cho biết rằng cụ Hồ Chí Minh – Chủ tịch chính phủ lâm thời muốn hội đàm với đại biểu đoàn văn hóa khoảng 19 h.Ba anh Trương Tửu, Thượng Sỹ, Nguyễn Đức Quỳnh do anh Nguyễn Hữu Đang hướng dẫn, lên Bắc Bộ phủ để yết kiến Cụ Hồ Chủ tịch.

(…) – Thưa Cụ, lời anh Trương Tửu đáp lại, toàn thể anh em trong giới văn hóa chúng tôi, bao lâu nay, vẫn sống trong sự áp bức ngột ngạt của chính sách thực dân.(….)Các ánh sáng tự do cần thiết cho sự phát triển văn hóa mà chúng tôi hằng khao khát đã nhờ sự giải phóng ấy mà  bắt đầu tưng bừng, cho nên đối với chúng tôi, tranh đấu cho nền độc lập của nước nhà trong lúc này cũng là tranh đấu cho sự giải phóng của nền văn hóa Việt Nam.

Cụ Hồ Chủ tịch gật đầu tỏ ý bằng lòng.:

-Bổn phận của các ngài là lãnh đạo tư tưởng của quốc dân, tranh đấu cho nền độc lập và kiến thiết một nền văn hóa mới. Cái văn hóa mới này cần phải có tính cách đại chúng thì mới thuận với trào lưu tiến hóa của tư tưởng hiện đại.

Cụ nói tới đây thì anh Nguyễn Đức Quỳnh xin phép Cụ trình bày vài ý kiến:

-Thưa Cụ,  lời anh Quỳnh nói, Cụ đã nói đến tính cách khoa học của văn hóa mới, chúng tôi xin đề cập  đến ( sic) sự hợp tác của các nhà kỹ thuật, chuyên môn trong công việc kiến thiết quốc gia. Theo chỗ chúng tôi nhận xét, ít lâu nay các nhà kỹ thuật chuyên môn trong công việc kiến thiết quốc gia hình như vẫn còn chút ít ngần ngại khi muốn hợp tác với Chính phủ để thi thố tài năng của mình.  Họ là những người sống bằng kỹ nghệ và chỉ muốn làm việc cho kỹ thuật.  Họ muốn được quyền đứng ngoài những xu hướng chính trị của đảng phái để phụng sự Tổ quốc.

Mắt cụ Hồ sáng hẳn lên. Cụ với tay cầm quản bút ghi trên một giấy để trước mặt Cụ. ( chúng tôi thấy Cụ ghi bằng chữ Hán. Cụ đặt quản bút xuống chậm rãi nói:

-Tôi nhờ ngài thanh minh với tất cả anh em trong giới kỹ thuật chuyên môn rằng: Nước Việt Nam  không phải của Việt Minh. Nước Việt Nam  là của quốc dân Việt Nam .  Chính phủ lâm thời hiện thời này không phải là Việt Minh là của toàn thể quốc dân.(….)

( trích theo “  CAND Online / Chủ tịch Hồ Chí Minh với nền văn hóa Việt Nam  trong những ngày đầu các… Page 1 of 3 ,

với lời mào đầu:

” “Nhân dịp đầu xuân 2011, chúng tôi xin giới thiệu bài tường thuật của Hồ Chủ tịch về văn hóa với đại biểu đoàn văn hóa lâm thời Bắc bộ đã được đăng trên tạp chí Tri Tân số 205, tháng 9/ 1945, trang 4-5).

Chú thích 3:

–     Câu chuyện “ đạo văn” giữa người dự thi và người chấm giải  Giải văn chương Tự lực văn đoàn  được tóm tắt như sau.

–     Nhà văn trẻ Từ Ngọc ( giáo sư Nguyễn Lân sau này) gửi bản thảo tiểu thuyết” Ngược giòng” dự giải- thì Khái Hưng ( một thành viên trong ban Giám khảo) đã’ thuổng’ cốt truyện này để viết  ngay thành” Thoát ly” cho đăng liên tục trên tạp chí”  Ngày Nay”.( và truyện dự giải của Từ Ngọc vẫn được xếp xó).

–     Từ đó, Thiên Hư- Vũ Trọng Phụng  trên báo” Đông dương tạp chí”  viết bài:” Quanh việc nhà văn sĩ Khái Hưng bị buộc tội ăn cắp văn”- vụ án văn chương khởi sự  tạo một dư luận thật ồn ào. Phe bênh Từ Ngọc, phe chống ‘ bọn văn phiệt’ làm náo loạn văn đàn thời ấy.

–     Trương Tửu đứng về phe Vũ Trọng Phụng, viết trên báo” Ích Hữu” bênh vực  Từ Ngọc ,  lên án Khái Hưng, lôi theo cả chuyện Nguyễn Tường Tam ( Nhất Linh) , chỉ vì xin ngài Nguyễn Hữu Bài một chân tri huyện không được đáp ứng; nên  báo” Phong Hóa” bôi nhọ quan trường, bất chấp người tốt, kẻ xấu..

–     Thế Lữ nghênh ngang đứng sau vụ “văn sĩ Khái Hưng đạo văn “,khua chiêng gióng mõ trên văn đàn, bôi nhọ Thiên Hư-Vũ Trọng Phụng- mục đich làm “ át’ đi dư luận lên án vụ án đạo văn khởi xướng từ Thiên Hư trên  báo “Đông dương Tạp chí.”

–     Hồ Hữu  Tường đóng vai” ngư ông” hưởng lợi  –  ca tụng “Khái Hưng, người thứ nhất muốn làm Nguyên soái văn chương sáng giá”-“ Vậy ,có ai nhắc lại chuyện đạo văn đê tiện của Nguyên soái đầu tiên trong văn chương sáng giá đâu? Chẳng còn mấy ai biết chuyện” Ngược giòng” Từ Ngọc” lội” để dòng “ văn chương thoát ly” lai láng tuôn chảy vào lịch sử văn học làm nổi đình đám Khái Hưng hơn lên. Cũng chẳng ai tìm lục những bài” hai nhà xuất bản Tân Dân và Đời nay”.. và” Quanh Việc Nhà Văn Sĩ Khái Hưng Bị Buộc Tội Là Ăn Cắp Văn”, như một cáo trạng của nhà văn phóng sự kỳ tài Vũ Trọng Phụng ,dưới một bút danh khác viết báo, lên án vụ đạo văn bẩn thỉu ấy !..”.(…)

–      

trích từ’ Thư viết ở Sài Gòn /Thế Phong  (Văn Uyển  xuất bản – , San Jose , California  2000) [].

Thế Phong
VIRGIL GHEORGHIU

Shoptinhyeu . vn thuoc115 . com bán các loại thuốc chống xuất tinh sớm, yếu sinh lý, thuốc cường dương tốt nhất thị trường

Thuốc viagra mua ở đâu bán ở đâu giá bao nhiêu rẻ nhất ?
Bạn liên hệ theo số điện thoại đường dây nóng bạn nhé
Nhà phân phối độc quyền
Tại TP HCM : 90/12 Cao Thắng, phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại 0928080808
Đại lý cấp 1 tại Hà Nội, miền Bắc : 243 Định Công Thượng, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại : 0936700000
Đại lý số 2 : 13 B10 mặt phố Phạm Ngọc Thạch, Quận Đống Đa, TP Hà Nội (nằm giữa ngã ba Phạm Ngọc Thạch với Lương Đình Của và Xã Đàn)

website :
shoptinhyeu . vn
thuoc115 . com
giaosutinhyeu . com

xem phim hài 18+

Hoàng Như Mai Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Hoàng Như Mai  (1919  – 2013 ) là Giáo sư , Nhà giáo Nhân dân  và là nhà văn  Việt Nam .

Mục lục   [ẩn ] 

1 Tiểu sử 2 Các tác phẩm, công trình tiêu biểu 2.1 Sáng tác 2.2 Nghiên cứu 3 Nhận xét (sơ lược) 4 Ghi chú 5 Liên kết ngoài

Tiểu sử [ sửa  |  sửa mã nguồn ] Ông sinh ngày 3 tháng 8  năm Kỷ Mùi  (26 tháng 9  năm 1919 ) tại Phủ Lạng Thương , tỉnh Bắc Giang . Quê quán ông ở thôn Nội Am, xã Liên Ninh , huyện Thanh Trì , Hà Nội .

Lớn lên, ông lần lượt học ở Trường Bưởi , Đại học Y khoa và Đại học Luật khoa Đông Dương ở Hà Nội.

Năm 1943 , khi đang là sinh viên Đại học Luật, ông bắt đầu đứng trên bục giảng ở Trường trung học tư thục Đông Hải (Hải Dương ).

Đến năm 1948 , ông được Tỉnh bộ Việt Minh  tỉnh Thái Bình  mời làm Hiệu trưởng Trường trung học Phan Thanh. Sau đó, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ sau:

– Hiệu trưởng Trường Sư phạm Việt Bắc  (1951 ). – Hiệu trưởng Trường Sư phạm trung cấp trung ương (1953 ). – Cán bộ giảng dạy Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (1959 ). – Cán bộ giảng dạy Trường đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh  (1980 ). – Hiệu trưởng Trường trung học phổ thông Trương Vĩnh Ký  (1997 – từ 1988  – đến khi qua đời). – Chủ tịch Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh  (từ 1988 – đến khi qua đời). Giáo sư – Nhà giáo nhân dân Hoàng Như Mai qua đời lúc 15 giờ  20 phút  ngày 27 tháng 9  năm 2013  ở Bệnh viện 175, Thành phố Hồ Chí Minh , thọ 95 tuổi [1] .

Trong quá trình công tác, ông được Nhà nước phong chức danh Giáo sư (1982 ), phong danh hiệu Nhà giáo Nhân dân (1990 ) và được tặng Huân chương Lao động  hạng nhất [2] .

Các tác phẩm, công trình tiêu biểu [ sửa  |  sửa mã nguồn ] Sáng tác [ sửa  |  sửa mã nguồn ] Tiếng trống Hà Hồi (kịch, 1948) Dòng sông biên giới (kịch, viết 1957, xuất bản 2001) Vẽ chân dung cụ Đồ Chiểu  (kịch, viết 1982, xuất bản 2001). Trao cho nhau cuộc đời (thơ, 1993) Nghiên cứu [ sửa  |  sửa mã nguồn ] Văn học Việt Nam  hiện đại (Nhà xuất bản Giáo dục, 1961) Trần Hữu Trang  – soạn giả ca kịch cải lương  (1982) Nhà soạn kịch cải lương Trần Hữu Trang (1986) Nhận định về cải lương (1986) Giới thiệu sân khấu cải lương (1986) Thơ một thời (1989) Hoàng Như Mai tuyển tập (Nhà xuất bản Giáo dục, 2005) [3] . Nhận xét (sơ lược) [ sửa  |  sửa mã nguồn ] Được tin Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Hoàng Như Mai vừa qua đời, trên trang Bauxite Việt Nam  có đoạn viết:

“Thầy Hoàng Như Mai là chuyên gia văn học Việt Nam cận hiện đại, thầy của nhiều thế hệ trí thức và giảng viên đại học ngành Ngữ văn hiện đang tại vị hay đã về hưu. Với bẩm chất một nghệ sĩ giàu lòng ưu ái, có lối sống nhân hậu và biết nhìn đời bằng con mắt vui đùa, ông hầu như lúc nào cũng gây ấn tượng trong trẻo, cảm giác thanh lọc trong tâm hồn, cho người được tiếp xúc. Là nhà giáo cần mẫn, có kiến thức uyên thâm và có phương pháp truyền đạt giàu sức biểu cảm, ông để lại vô vàn tình cảm nồng đậm trong lòng bạn bè đồng nghiệp và các thế hệ học sinh sinh viên từ hơn 60 năm nay…[4] Ghi chú [ sửa  |  sửa mã nguồn ] ^  Theo người nhà của GS Hoàng Như Mai, ông từ trần sau 1 tháng điều trị tại bệnh viện. Nhập viện từ ngày 26 tháng 8 năm 2013 do bị té gãy xương đùi, GS được phẫu thuật ngày 15 tháng 9 và sức khỏe ổn định. Thế nhưng, sau đó không lâu, ông mắc bệnh viêm phổi nặng và bị nhiễm trùng. Tối 26 tháng 9, sức khỏe của ông trở nên nguy kịch, và ông đã không thể qua khỏi cơn bạo bệnh…Nguồn: “Giáo sư Hoàng Như Mai từ trần” trên báo Thanh Niên , truy cập ngày 27 tháng 9 măm 2013 [1] . ^  Nguồn: “Vĩnh biệt giáo sư – nhà giáo nhân dân Hoàng Như Mai” trên báo Tuổi Trẻ , truy cập ngày 27/09/2013 [2] , và “Thầy Hoàng Như Mai với những câu chuyện thầy – trò” cũng trên báo này, truy cập ngày 28/09/2013 [3] . ^  Nguồn: “Vĩnh biệt giáo sư – nhà giáo nhân dân Hoàng Như Mai”, đã dẫn. ^  Nguồn: “Vĩnh biệt Giáo sư Hoàng Như Mai” trên trang Bauxite Việt Nam , truy cập 28/09/2013 [4] .

Liên kết ngoài [ sửa  |  sửa mã nguồn ] Giáo sư Hoàng Như Mai – tài năng và đức độ

Thể loại : Sinh 1918 Mất 2013 Nhà giáo Việt Nam Nhà văn Việt Nam
VIRGIL GHEORGHIU

Shoptinhyeu . vn thuoc115 . com bán các loại thuốc chống xuất tinh sớm, yếu sinh lý, thuốc cường dương tốt nhất thị trường

Thuốc viagra mua ở đâu bán ở đâu giá bao nhiêu rẻ nhất ?
Bạn liên hệ theo số điện thoại đường dây nóng bạn nhé
Nhà phân phối độc quyền
Tại TP HCM : 90/12 Cao Thắng, phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại 0928080808
Đại lý cấp 1 tại Hà Nội, miền Bắc : 243 Định Công Thượng, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại : 0936700000
Đại lý số 2 : 13 B10 mặt phố Phạm Ngọc Thạch, Quận Đống Đa, TP Hà Nội (nằm giữa ngã ba Phạm Ngọc Thạch với Lương Đình Của và Xã Đàn)

website :
shoptinhyeu . vn
thuoc115 . com
giaosutinhyeu . com

xem phim hài 18+

Kỷ niệm 30 năm ngày giỗ Nhà văn CHU TỬ

Buổi sáng ngày 29-4-2005 tôi ngồi trong nhà uống trà một mình, anh tổ phó an ninh khu phố tới trước cửa nhà tôi nhắc nhở treo cờ, kỷ niệm chiến thắng 30-4. Tôi biết chứ, ngày 30-4-1975 là ngày nhà văn nhà báo Chu Tử bị tử nạn trên đường di tản, năm nào gia đình ông cũng làm giỗ kỷ niệm ông vào ngày đó, nhưng để tránh lôi thôi phải đổi thành vào ngày âm lịch (19-3 âm lịch). Anh em bạn bè của ông Chu Tử nhớ ngày đó mà đến, tôi cũng đến cách đây một ngày. Ðể cắm nhang cho ông cho vẹn tình vẹn nghĩa. Có tiếng người nào trong xóm:

– Cha nội, hôm nay mới là 29 à!

Anh tổ phó an ninh trả lời cáu kỉnh, tỏ quyền uy:

– Lệnh của phường có thi hành không thì bảo.

Tôi thì lẩm bẩm:

– Biết rồi khổ lắm nói mãi.

Nhà văn Chu Tử, tác giả tiểu thuyết YÊU nổi tiếng một thời, đã thành một hiện tượng trong giới trẻ Việt Nam trong những năm 1960, kéo dài đến năm 1970 và ảnh hưởng còn mãi mãi, nay đã gần nửa thế kỷ người ta vẫn còn nhắc đến, dù tác phẩm của ông đã bị nhà nước cầm quyền mới loại trừ nằm cùng trong danh sách tác phẩm bị kết án là đồi trụy, biệt kích văn nghệ sau ngày 30-4-1975, cần phải tiêu diệt, cùng thời với những sách báo xuất bản ở miền Nam Việt Nam, bị thiêu đốt và bị tiêu diệt. Những văn nghệ sĩ miền Nam bị bắt bỏ tù, không mang một tội danh nào rõ ràng. Phần đông những nhà báo, nhà văn miền Nam phải gác bút ngần ấy năm trời, vì bị kỳ thị ra mặt… Nhưng tinh thần người cầm bút miền Nam vẫn còn đó, nếu có dịp.

Năm nay sau 30 năm chiến thắng đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào, người chiến thắng tổ chức thật xôm tụ, họ nói có khác hơn mọi năm, có ca tụng chiến thắng, nhưng nay thì mong có sự hòa hợp dân tộc do lòng khoan dung của người chiến thắng. Họ lôi cổ vài anh tướng Ngụy gần đất xa trời lên nói chuyện về lòng nhân đạo của cách mạng trong ngày 30-4-1975, quên đi quá khứ kêu gọi nhân dân Việt Nam, kể cả ở nước ngoài hãy quên đi quá khứ để xây dựng lại đất nước. Quên đi quá khứ sao? Người Do Thái có quên được Hítler tàn sát dân Do Thái không? Trung Quốc Ðại Hàn có quên đi được quân đội Nhật hoàng gây bao nhiêu đau thương trên đất nước họ không, gần đây nhất là nước Cambuchia có quên được bọn diệt chủng Khờ Me Ðỏ không? Hình như lời kêu gọi ấy đến nay đã muộn màng quá rồi.

Mọi năm tới ngày này anh em chúng tôi gặp nhau, thắp cho ông Chu Tử nén nhang tưởng niệm. Chúng tôi ôn lại những năm tháng đã trôi qua, những năm tháng chúng tôi cùng hành nghề làm báo viết văn với nhau. Những kỷ niệm buồn vui lẫn lộn trong những ngày tháng hành nghề, cùng với nhà báo Chu Tử, chủ nhiệm nhật báo Sống. Ðối với tôi, một người làm báo cộng tác với nhiều tờ báo, nhưng báo Sống vẫn là tờ báo chính, tình nghĩa với ông Chu Tử từ ngày đầu đến ngày cuối, tôi thành nghề, thành danh nhà văn nhà báo cũng từ tờ báo ấy. Từ một thanh niên yêu nghề, còn lơ ngơ trong nghề nghiệp, rồi trưởng thành đi đến thành công, đều khắp các anh em, chứ chẳng riêng gì tôi. Tôi quí mến người đàn anh dẫn đầu, mãi mãi không thể nào quên. Với đám nhà báo cứng đầu cứng cổ chúng tôi, thường giữa chủ nhiệm và ký giả ít khi có sự hòa hợp, vì không phục tài năng của nhau cũng như sự đối xử có phần tệ hại với ký giả ở vài ba tờ báo khác, nhưng với báo Sống và ông Chu Tử thì không có chuyện đó. Mười năm chúng tôi làm việc với nhau, kết với nhau thành một khối, trong tình trong nghĩa, mỗi ngày có thêm anh em, đời sống chúng tôi như ruột thịt… cho đến khi bầy đoàn bị tan rã vì báo bị đóng của bị khủng bố vì tội ăn ngay nói thật, cho đến lúc chế độ Việt Nam Cộng Hòa bại trận (30 Tháng Tư 1975). Tôi nói ông Chu Tử là một chủ nhiệm tuyệt vời, những người anh em còn lại trên thế gian này vẫn nghĩ đến ông, cả những người anh em thân hữu của báo Sống, đã 30 năm qua tình cảm vẫn nguyên vẹn, người nào trong anh em “dạo chơi miền tiên cảnh” thì cứ đi, người còn lại đến với ông, thắp cho ông nén nhang tưởng nhớ. 30 năm qua bao nhiêu người anh em đã ra đi, đến hôm nay dự đám giỗ ông Chu Tử tôi thấy vắng bóng nhiều anh em xưa: Nhà thơ trào phúng Tú Kếu, nhà văn Mặc Thu, ông Khai Trí Nguyễn Hùng Trương, một thân hữu của báo Sống từ ngày đầu, cũng mới qua đời, chỗ ngồi kia mới năm ngoái còn có nhà báo Phan Nghị, anh đã nằm xuống trong năm qua, lần cuối cùng anh dự buổi giỗ của ông Chu Tử khi sức khỏe anh đã suy yếu lắm rồi, vào tuổi 80. Còn nhiều những anh em khác đi nước ngoài. Tôi vẫn cảm thấy xôn xao như khi còn đông đủ anh em ngày nào… Tôi cũng già yếu như các anh em có mặt ở đây và mang nhiều thứ bệnh, không biết mình sẽ gục ngã lúc nào, sang năm tôi còn ngồi với anh em nữa không, tôi cho là mình nghĩ dại dột, nhưng tôi bình tĩnh khi nghĩ đến điều đó. Một cuộc đời đầy bất trắc đâu có nói trước được điều gì. Chú Ðông con (Nguyễn Ðình Ðông) làm việc trong ban trị sự báo Sống, liên tiếp bao nhiêu năm đều có mặt trong bữa giỗ ông Chu Tử, chú ấy còn trẻ tuổi hơn chúng tôi, khỏe mạnh, vậy mà cũng đã qua đời vì một tai nạn đáng tiếc. Ðiểm mặt người quen của báo Sống thì buổi giỗ này thiếu nhiều lắm. Nghĩ lại anh em chúng tôi càng buồn, buồn vào ngày 30 tháng Tư. Năm nay vẫn làm giỗ vào ngày 19 tháng Ba âm lịch, chỉ cách ngày 30-4 dương lịch có ba ngày, nhưng sự bồi hồi trong lòng mọi người vẫn nguyên vẹn. Nhà báo, nhà thơ, nhà văn Hồ Nam, ký bút hiệu làm thơ là Vương Tân, ngậm ngùi đọc bài thơ:

GỬI CHU TỬ

Anh đi ba mươi năm

Trên biển cả mênh mông

Tôi ở ba mươi năm

Trong ngục tù ngạo nghễ

Chúng nào giết được anh

Chu Tử luôn bất tử

Sống, Yêu và sống mãi

Một đời những thiên thu

Anh gieo rắc tình yêu

Chúng gieo rắc thù hận

Anh vinh danh sự thật

Chúng nói dối lừa gạt

Lịch sử đã sang trang

Kịch nào cũng hạ màn

Tôi vẫn là tôi nói

Nói thật và nói thẳng

Tôi vẫn là tôi làm

Làm thơ và uống rượu

Ngất ngưởng giữa cuộc đời

Ðể vinh danh con người

Những con người dám sống

Dám yêu và dám chết

Những con người tử tế

Những con người bất diệt

Dám xoay chuyển đất trời

Dám vượt lên tất cả

Ðể cứu rỗi chính mình

Trong bão táp thời đại.

Bài thơ anh ký tên là Vương Tân, bút hiệu làm thơ của anh trong nhiều năm. Bài thơ anh làm khá bạo, mà tôi biết phát xuất tự trong tâm trạng của anh, những người Việt Nam ở phía bại trận còn ở lại Việt Nam suốt 30 năm qua, hiểu tất cả, thấm thía cuộc đời, Hồ Nam tức Vương Tân, tức Hồ Lô, tên Hồ Lô do anh em thân mật đặt cho anh, vì anh như chiếc hồ lô chứa rất nhiều, mà không có nắp đậy, có dịp là xả, một con người ăn ngay nói thẳng, vì vậy suốt ba mươi năm qua anh bị ở tù hơi nhiều lần. Mà chứng nào vẫn tật ấy, không chừa được.

Không có tiếng vỗ tay tán thưởng, chúng tôi lặng người để tưởng niệm ông Chu Tử, Hồ Nam tự rót cho mình một ly rượu và uống cạn… Con người anh như thế, tuổi gần tám mươi rồi nhưng vẫn lắm điều. Ðối thủ của anh là Phan Nghị, nay không còn nữa, anh không nói nhiều như năm ngoái năm kia, trong những buổi giỗ ông Chu Tử tranh nhau nói, gần như cả bàn chỉ nghe tiếng hai anh, anh nào cũng đầy kỷ niệm với Chu Tử từ thuở nảo thuở nào, nhưng năm nay anh có bài thơ…

Trong bữa giỗ vợ chồng Chu vị Thủy, Ðằng Giao cũng cho chúng tôi biết, Chu Sơn (con trai lớn của của ông Chu Tử, và là anh của Chu vị Thủy) ở bên Mỹ, trong năm nay sẽ tái bản tiểu thuyết Yêu của Chu Tử trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại, phát hành tại Houston, Texas. Ông Chu Tử cùng với gia đình con trai là Chu Sơn đi cùng chuyến tầu, khi vừa tới biển Cần Giờ hồi 10 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, chiếc tàu Việt Nam Thương Tín bị đạn pháo, ông Chu Tử bị tử nạn, hai đứa cháu nội của ông bị thương rất nặng. Tôi đã được nghe chuyện này mấy ngày sau, khi Sài gòn bại trận và ông Dương văn Minh đầu hàng vô điều kiện. Tôi biết rõ chi tiết hơn, khi vào trong trại học tập cải tạo, giam chung với những người đi trên chiếc tầu ấy, dại dột nghe lời tuyên truyền mà quay trở về Việt Nam. Anh Hài, người tù cùng trại, biết tôi là người từng làm báo Sống nên đã kể cho tôi nghe từng chi tiết khi ông Chu Tử táng mạng bởi cú đạn B40 từ bờ biển Cần Giờ bắn ra trúng tầu, xác Chu Tử được thủy táng ngay khi ra tới cửa biển Vũng Tầu trên biển Ðông.

Vĩnh biệt Chu Tử, ba mươi năm đã trôi qua rồi, một giấc mơ hay một cơn ác mộng? Có nghĩa lý gì đâu, ngày 30 tháng Tư là ngày vui của người chiến thắng và cũng là ngày buồn của nhiều người Việt Nam. Xuất bản lại tiểu thuyết của nhà văn Chu Tử trong cộng đồng người Việt ở một nơi có tự do tư tưởng, có tự do báo chí là một điều an ủi, mát lòng cho linh hồn của ông ở ngoài biển đông cùng với bao trăm ngàn linh hồn người miền Nam bỏ nước ra đi tìm Tự Do không được may mắn đến bến bờ hạnh phúc Tôi được nghe những đài phát thanh nước ngoài tường thuật lại buổi lễ cầu siêu lẫn với tiếng sóng biển ầm ầm, rồi tiếng khóc sụt sùi của một vài người khi nói đến người thân yêu phải nằm lại trên mảnh đất xa lạ, và những giọng nói thuật lại vẫn mang những âm hưởng kinh hoàng dù những chuyện xảy ra trên biển cách đây 30 năm. Những thuyền nhân vượt biển may mắn thoát chết, ngày nay cuộc sống của họ đã yên ổn và họ được định cư ở nhiều nước trên thế giới, nay ba mươi năm sau quay trở lại những trại tạm cư bên bờ biển đông để cầu siêu cho linh hồn những thuyền nhân đã tử nạn. Mà nhà văn Chu Tử là nạn nhân đầu tiên trong ngày tháng Tư đau buồn ấy.

Ngày này mỗi năm chúng tôi lại tìm đến nhau, uống với nhau ly rượu trong bữa giỗ ông Chu Tử, nhắc lại những kỷ niệm xưa, những ngày tháng tự do, hạnh phúc cùng làm báo với ông Chu Tử dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Buổi lễ nào rồi cũng phải tàn, tiệc nào cuối cùng rồi cũng phải chia tay. Khói nhang trên bàn thờ đốt lên để tưởng niệm ông Chu Tử cũng đã tàn, anh em tôi lần lượt ra về, trời đêm trên xứ Gia Ðịnh xưa thật buồn, năm nay mùa mưa đến rất muộn…

Gia Ðịnh, Phú Nhuận 30-4-2005

NGUYỄN THỤY LONG
VIRGIL GHEORGHIU

Shoptinhyeu . vn thuoc115 . com bán các loại thuốc chống xuất tinh sớm, yếu sinh lý, thuốc cường dương tốt nhất thị trường

Thuốc viagra mua ở đâu bán ở đâu giá bao nhiêu rẻ nhất ?
Bạn liên hệ theo số điện thoại đường dây nóng bạn nhé
Nhà phân phối độc quyền
Tại TP HCM : 90/12 Cao Thắng, phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại 0928080808
Đại lý cấp 1 tại Hà Nội, miền Bắc : 243 Định Công Thượng, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại : 0936700000
Đại lý số 2 : 13 B10 mặt phố Phạm Ngọc Thạch, Quận Đống Đa, TP Hà Nội (nằm giữa ngã ba Phạm Ngọc Thạch với Lương Đình Của và Xã Đàn)

website :
shoptinhyeu . vn
thuoc115 . com
giaosutinhyeu . com

xem phim hài 18+

Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Thụy Long

Vương Trùng Dương Nhà văn Nguyễn Thụy Long bị bệnh tiểu đường khá nặng, sau thời gian bị “stroke” tai biến mạch máu não, phải dưa vào bệnh viện, đã qua đời lúc 2 ngày giờ chiều, ngày 3 tháng 9 năm 2009 vì nhiễm trùng đường tiểu, tại Sài Gòn, hưởng thọ 71 tuổi.

*

Nhà văn Nguyễn Thụy Long hoàn thành truyện dài Thìn Ma vào tháng Giêng 2007, khi ông bước vào tuổi thất thập. Trong tuổi già, sức khỏe yếu kém, đời sống khó khăn, Nguyễn Thụy Long biết rằng ngòi bút không nuôi được bản thân như trước kia nhưng cái nghiệp vẫn còn và viết lách để vơi đi bao ưu phiền trong cuộc sông.

Từ “Tác phẩm đầu tay của tôi là Loan Mắt Nhung ra đời và làm nên văn nghiệp của tôi được xuất hiện trên tờ báo Sống, do sự khuyến khích của ông Chu Tử… Tôi chính thức là ký giả của báo Sống, nhưng cũng đánh lẻ cho nhiều báo như một số anh em ký giả khác. Thành nghề hầu hết do kinh nghiệm, sự học hỏi lẫn nhau” (Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút”, nxb Văn Nghệ, California, 1999 – trang 166) đến Thìn Ma cách nhau hơn 4 thập niên.

Trước năm  1975, tác phẩm Loan Mắt Nhung được mọi người đón nhận. Loan Mắt Nhung phác họa hình ảnh cậu học sinh lương thiện trong thập niên 60 ở Sài Gòn, bị hoàn cảnh xã hội đưa đẩy trở thành du đãng nổi tiếng. Từ cuộc sống cù bơ cù bất, khốn khổ, Loan phải đương đầu với bao nghịch cảnh để sinh tồn và trở thành đàn anh trong làng dao búa trong xã hội đen. Là tay anh chị, dưới trướng có đàn em nhưng Loan lại cảm thấy cuộc đời cô đơn và muốn hoàn lương, nhưng hoàn cảnh thôi thúc, lôi kéo vào chốn bùn nhơ, gió tanh mưa máu, tội ác… Và, Loan tự giải quyết cho lối thoát bằng hành động giết người rồi nộp mình cho cảnh sát, hối hận vì đã đánh mất một thời trai trẻ.

Loan Mắt Nhung được đạo diễn Lê Dân và hãng Cosunam Film dựng thành phim, được thành công, khản giả ái mộ, vì vậy tên tuổi Nguyện Thụy Long gắn liền với Loan Mắt Nhung.

Sau bốn thập niên, Thìn Ma ra đời, cậu bé tên Thìn, sinh trước năm 1975 nhưng rơi vào hoàn cảnh “lớn lên trong thời gạo châu củi quế, thời bao cấp và triệt để thực hiện chủ nghĩa Cộng Sản, gọi là Xã Hội Chủ Nghĩa, toàn miền Nam đói, tuy nhiên chưa có ai chết đói vì còn có khoai, có bắp, mì sợi, bán cho những hộ gia đình có sổ lương thực mua ở Hợp Tác Xã” (Thìn Ma)ï. Biệt danh Thìn Ma do lối xóm đặt cho anh vì không biết mỗi khi lên cơn, bị ma nhập hay không, Thìn la hét và trông rất bất thường. Từ chàng trai hiền lành, khù khờ sống trong khu lao động nghèo nàn ở chợ Bà Chiểu, bán khô mực nướng, đạp xích lô để nuôi mẹ già, con dại kiếm miếng cơm độ nhật nhưng cũng bị trấn lột và bị “lừa” vào đường dây phân phối ma túy rồi trở thành tay anh chị giết người trong xã hội đen… Cầm đầu tổ chức trong đường dây nầy được bảo vệ và che đậy bởi “gia đình văn hóa”!…  Và Thìn cũng được núp dưới bóng gia đình đó để lao vào chuyện làm ăn phi pháp. Tên sát thủ Thìn Ma cũng không thoát khỏi quy luật của xã hội như Loan Mắt Nhung!

Nhà văn Nguyễn Thụy Long sở trường về cái nhìn cuộc sống của lớp người rơi trong hoàn cảnh đen tối và đầy dẫy cạm bẫy, bởi mưu sinh thời thế xô đẩy. Cuộc đời ông cũng trải qua bao thăng trầm, hàm oan nhưng ông phó mặc cho đời. Ông bày tỏ: “Trong đời cầm bút của tôi chưa bao giờ viết lên được một nhân vật đẹp đẽ, tôi chỉ chuyên tìm con đường gai góc mà đi, những nhân vật ma chê quỉ hờn đã được thể hiện trên giấy” (Hồi Ký sđd – trang 273).

Sau hồi ký Thuở Mơ Làm Văn Sỹ, Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút” được ấn hành ở hải ngoại. Ông đã hoàn thành Hồi Ức 40 Năm Làm Báo vào tháng 12 năm 2002.

Tác phẩm đầu tay là tập truyện ngắn Vác Ngà Voi (bút hiệu Lan Giao), xuất bản năm 1965, tạo tiếng vang cho ông. Ông có năng khiếu chuyên viết feuilleton cho nhiều tờ báo. Ông viết nhiều thể loại nhưng đã được ấn hành một số tác phẩm: Chim Trên Ngọn Khô, 1967 – Trong Vòng Tay Đàn Ông, 1967 – Vết Thù, 1968 – Bà Chúa Tám Cửa Ngục, 1968 – Đêm Đen, 1968 – Gái Thời Loạn, 1968 – Nữ Chúa, 1969 – Nợ Máu, 1969 – Ven Đô, 1970 – Sầu Đời, 1970…

*

Nguyễn Thụy Long sinh ngày 9 tháng 8 năm 1938, ở ngõ Hòa Mã Hà Nội. Thân phụ, họa sĩ Nguyễn Thụy Nhân, thân mẫu cụ bà  Phạm Thị Miên.

Vào Nam  năm 1952, sinh sống tại Sài Gòn. Ông theo học Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu nhưng muốn theo nghiệp hội họa của thân phụ nên nhảy sang trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định. Thân phụ qua đời, ông phải sống tự lập nên vào đời rất sớm. Bị đi quân dịch, bị tù vô cớ rồi trải qua tháng ngày đầy nghiệt ngã và đó cũng là chất liệu để ông thể hiện qua ngòi bút.

Nguyễn Thụy Long là Hạ Sĩ Quan Tiếp Vận trong binh chủng Không Quân. Tưởng đã yên phận nhưng tai họa lại đến: “Tháng 11 năm 1960, Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông đảo chính Ngô Đình Diệm thất bại chạy vô phi trường Tân Sơn Nhất được Phan Phụng Tiên đưa lên một chiếc C47 chuẩn bị đưa qua Nam Vang tỵ bạn; Nguyễn Thụy Long đang trong phiên trực nhận được lệnh phải đổ đầy xăng cho chiếc C47 chạy trốn”(HN). Trong cuộc truy lùng nầy, Nguyễn Thụy Long bị vạ lây vì An Ninh Quân Đội bắt rồi đưa vào nằm khám Chí Hòa…

Giai đoạn đó được Nguyễn Thụy Long ghi lại trong Hồi Ức 40 Năm Làm Báo:

“Sau một phùa đi tù lãng nhách  một năm tại khám Chí Hòa, thuở ấy gọi là Trung Tâm Cải Huấn Chí Hòa, từ vừa thối vừa giả dối, mà đời tôi từng được thấy na ná nhau đến hai lần qua hai chế độ mà tôi đã sống qua. Tôi mang tội đào ngũ sau chính biến 11-11-1961, thêm tội du thủ du thực vì không nhà, không cửa. Để kiếm sống qua ngày tôi sống những ngày  tận cùng xã hội miệt Cầu Ông Lãnh trên Con Kinh Nước Đen. Một đời sống dễ sợ của những con người bị coi là cặn bã của xã hội. Những con người dám ăn thịt nhau, cấu xé nhau để sống, sẵn sàng khống chế, ăn thua đủ với nhau bằng bạo lực. Tôi làm cu li ở kho 5 Khánh Hội trên đường Trịnh Minh Thế sau này là đường Nguyễn Tất Thành, rồi làm phụ thợ hồ ở quận 8, chuyên đổ ống cống xi măng và làm cọc rào ấp Chiến Lược. Kể cả nghề giặt quần áo thuê trong xóm chơi bời. Nói ra kinh tởm vô cùng, nên tôi không nói hành nghề giặt thuê ở những nơi đó như thế nào, tôi để dành chi tiết ấy cho một tác phẩm khi làm nhà văn”.

“Một ngày kia tôi khăn gói quả mướp về báo Ngàn Khơi. Với điều kiện không lương chỉ được nuôi cơm, không chức vụ nên không  nề hà bất cứ công việc gì của tòa báo. Tôi yêu nghề báo, tôi chấp nhận, không phải nhắm mắt chấp nhận mà mở mắt chấp nhận. Một công việc vác ngà voi, cái ngà voi đẹp đẽ, nghề văn, nghề báo mà tôi từng ao ước mê say, như tất cả bạn bè anh em tôi vậy. Một tờ báo không có khoản chi lương, tiền nhuận bút bài vở cho những người cộng tác. Nhưng tất cả cật lực làm việc, mà làm việc với lương tâm và lòng nhiệt tình để xây dựng tờ báo trong lúc khó khăn”.

Từ những hình ảnh ghi nhận được trong khám Chí Hòa, Nguyễn Thụy Long viết lại Bà Chúa Tám Cửa Ngục, đăng tải trên tờ Ngàn Khơi và ông cộng tác với anh chị em trong nhóm Ngàn Khơi chỉ được “tiêu chuẩn” kẻ vác ngà voi.

Sau đảo chính tháng 11 năm 1963 “Người thầy đầu tiên khi tôi bước chân vào nghề báo (nhật báo), nói chính xác ra,  là nhà văn Chu Tử. Tại  nhật báo Sống, tôi cộng tác từ ngày đầu đến ngày cuối cùng, tôi đã trở thành phóng viên, ký giả rồi nhà văn”. Và đến thời điểm đó “Tôi run lên vì lần đầu tiên tôi được lãnh lương do nghề làm báo. Ngay ngày hôm sau chúng tôi tới tòa soạn làm việc để lo cho số ra mắt đầu tiên”. (Hồi Ức sđd).

Nhà văn Chu Tử có nhiều con nuôi, ông gả con nuôi cho Nguyễn Thụy Long, sau ngày 30 tháng Tư, 1975, Nguyễn Thụy Long chứng kiến thực tế rất phũ phàng: vợ bỏ, mất con, mất nhà! và từ đó, ông trở thành con người lang thang khắp nơi, mọi xó xỉnh… Ngay nơi chốn xóm Mả Đen, ấp Đông Ba, ông về sinh sống từ thuở đôi mươi nhưng cũng không được thừa nhận! 24 năm sau ông mới có hộ khẩu, chứng minh nhân dân. Căn nhà số 156/3 (25/12) đường Nhiêu Tứ, phường 7, quận Phú Nhuận hiện nay là nơi chốn đã sống được 50 năm.

Ông trải qua vài đời vợ và cuối đời cũng còn niềm an ủi.

Sau tháng ngày ra tù vào khám, ông cầm bút để mưu sinh nhưng rồi trắc trở và thất bại. Ông sống trong hoàn cảnh cơ cực, mong tìm lối thoát nhưng cũng bị hoài nghi và tai tiếng.

“Tôi trở thành thằng xạo xự. Giải thích, cải chính thế nào cho họ tin được. Mà cải chính làm chi cho phí lời. Điều họ nhận xét cũng đúng thôi, nhưng với những ai kia, chớ không phải tôi. Mẹ ruột tôi đã viết thư về nói: “Đồng đô la bên nầy quí hiếm lắm, không ai giúp được ai đâu, đừng mong chờ…” một cô em dâu của tôi ở bên Mỹ cũng nhắn tin về cho biết: tôi không nên trông chờ gì ở hai đứa con lớn đã thất lạc lâu năm vì mẹ đẻ ra chúng cấm chúng liên lạc với tôi, sợ tôi lại giở giọng xin tiền chúng nó. Hai đứa con nhỏ thì còn đi học nhờ vào tiền cấp dưỡng. Họ hàng anh em bà con tôi thì khỏi nói đến làm chi, tất cả đều khác, đều là người xa lạ”. (Hồi Ký sđd trang 260-261).

Tiếp nối Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút”, bốn năm sau, Hồi  Ức 40 Năm Làm Báo được hoàn thành, trong Lời mở đầu, ông cho biết:

“Tôi gia nhập làng báo, làng văn từ năm 1962, có thể trước đó một vài năm, nhưng chẳng kể làm gì, thời trước đó là thời của Văn Nghệ Học Sinh. Thuở tôi mơ làm văn sĩ… Thuở đó mới chỉ mơ  thôi chứ chưa có thật, một cái gì còn xa vời lắm với một cậu học sinh tài thô, trí thiển, nhưng tôi yêu nghề viết văn làm báo từ ngày đó. Người ta mơ gì thì mơ, tôi mơ một cách quái gở, mơ làm văn sĩ, một tương lai sự nghiệp không lấy gì làm sáng sủa cho lắm thời bấy giờ…

… Trong đời cầm bút của tôi, đến nay đã vào tuổi 65 (tính theo thời điểm 2002). Nhưng lúc cầm cây bút lên viết điều gì đó có thể hại cho an ninh bản thân. Bạn bè khuyên tôi nên từ bỏ đi, hay đốt bỏ cho mất tang tích.

Tôi không gặp được một may mắn nào… Điều mơ ước duy nhất của tôi, làm nốt những gì mình còn bỏ dở dang, tôi sẽ nói lên hết, nếu sức khỏe tôi còn cho phép. Tôi tự cho tôi quyền tự do trên căn gác bút cô đơn.

… Tôi theo đuổi nghề suốt 40 năm trời, hình như không lúc nào ngừng nghỉ, làm việc cả trong lúc bị gác bút, chân tay bị cùm, nhưng còn cái đầu, tôi vẫn làm việc, vẫn suy nghĩ và thầm viết trong đầu. Để lúc nào thuận tiện thì thành văn chương, tác phẩm. Kể chuyện nôm na chơi.

Trong đời sống hỗn mang hai mươi mấy năm trời qua, tôi sống thử qua rất nhiều nghề. Trong đó có cả nghề cầm  bút. Nó ra làm sao, đó là do sự tò mò của một  nhà báo mà cái gì cũng muốn biết. Tôi chấp nhận những cái không may sẽ đến với tôi…

… Tôi không mất vì chẳng còn gì mà mất, cứ coi là việc rong chơi qua ngày trong bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”.

Trong Hồi Ức 40 Năm Cầm Bút của ông có vài chương đã được đề cập trong Hồi Ký Viết Trên “Gác Bút”, khi viết, ông không che dấu thói hư tật xấu của mình, viết thật, sống thật, nghĩ sao viết vậy, có bao ngọn roi quất vào mặt ông và cũng có bàn tay đỡ đần, ông không ngại ngần đề cập khi viết nên có người vin vào để đả kích ông.

Mơ ước nào khi trở thành hiện thực thường mang lại ánh hào quang và niềm hạnh phúc nhưng ở Nguyễn Thụy Long, mơ ước hóa thân thành chữ nghĩa trong văn nghiệp thì ngược lại, vinh nhục đạp lên nhau và khốn đốn trong bão táp của cuộc đời với bao hệ lụy vây quanh. Ông phó mặc cho đời vì theo ông “Từ xưa đến nay tính chất của tôi vẫn là tưng tửng trong đời sống”.

*

Năm 2005, nhà văn Viên Linh tổ chức trao giải Văn Chương Toàn Sự Nghiệp của báo Khởi Hành cho Nguyễn Thụy Long. Điều đáng tiếc xảy ra khi có bài viết ở hải ngoại đả kích Nguyễn Thụy Long và ông ta phản pháo lại. Hai cây bút đã một thời thân tình với nhau nhưng có lẽ vì phản ứng tự vệ, cú đá “hồi mã thương” của ông trong cơn tức giận như cái tát đau điếng… ! Bút mực vẫn còn đó “lúc cầm cây bút lên viết điều gì đó có thể hại cho an ninh bản thân. Bạn bè khuyên tôi nên từ bỏ đi, hay đốt bỏ cho mất tang tích”.

Khi tôi viết về ông và sự việc đáng tiếc xảy ra, có email cho ông và nhận được hồi âm: “Đọc lại bài anh viết về tôi, tôi rất cảm động… Tôi và ông bạn… tuy có giận nhau nhưng thật lòng tôi vẫn quý mến vợ con ông ta, vì sự quen biết và thân tình đã mấy chục năm”!. Trong cuộc sống, ông đã gặp biết bao nghịch cảnh, oan trái… với đao, tên bằm nát thân xác, thêm một mũi tên trong lúc xế tà nơi xó xỉnh trong cơn bỉ cực, ông chỉ oán cho số phận mình còn lắm chông gai!

Khi liên lạc với ông, tôi biết ông sống trong hoàn ảnh khó khăn nhưng vẫn giữ sự tự trọng nên khi nhận được tác phẩm Thìn Ma, tôi liên lạc với nhật báo Viễn Đông đăng tải vào hạ tuần tháng Tư năm 2007 và trả tiền nhuận bút tác phẩm 500 mỹ kim. Về cuốn Hồi Ức 40 Năm Cầm Bút tôi nói với ông, sẽ tự nguyện giúp layout tác phẩm nếu có ai chịu trả tác quyền để in và phát hành, còn họ in, bán sách rồi gởi tiền về… sẽ trông đợi dài cổ! Sau đó tôi đưa cho nhật báo Viễn Đông và đã trả tiền nhuận bút 500 mỹ kim nhưng cho đến nay chưa đăng tải.

Nhật báo Viễn Đông trả tiền nhuận bút để đăng feuilleton, không liên quan đến vấn đề ấn hành. Nay nhà văn Nguyễn Thụy Long đã ra người thiên cổ, vợ và 3 đứa con nhỏ sống trong cơ cực. Nếu có vị mạnh thường quân nào nhã ý giúp cho phần bia mộ và đời sống người còn lại để ấn hành hai tác phẩm trên. Tôi sẽ giúp cho vấn đề layout miễn phí – từ trước đến nay, tôi chưa dính dấp bất cứ bất cứ đồng tiền nào giữa tác giả và tác phẩm mà chỉ làm công việc trung gian dể hỗ trợ cho nhau với tấm lòng trong sáng, thẳng thắn.

Trước đây, tôi gởi cho nhà văn Nguyễn Thụy Long bài viết về Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác (1881-1945) và được anh cho biết bài Hồ Trường anh thường ngâm mỗi khi cô đơn cùng cực, bà nội anh là chị em ruột với hiền thê của Nguyễn Bá Trác. Nguyễn Bá Trác là con rể Nguyễn Bá Học (1857-1921).

*

Thân mẫu Nguyễn Thụy Long được con gái bảo lãnh định cư tại Nam California. Ngày  26 tháng 9 năm 2004, cụ bà qua đời. Nơi căn nhà cũ, Nguyễn Thụy Long viết Hồi Ức Về Mẹ:

“… Căn nhà xưa của gia đình, mẹ tôi gìn giữ nó, không để cho bị tịch thu, vì anh em tôi đều bị đưa đi học tập cải tạo hết rồi. Mẹ ở một mình trong căn nhà ấy, đồ đạc trong nhà có gì bán dần, bán mòn đi để ăn và thăm nuôi hai anh em chúng tôi trong trại học tập. Cụ lặn lội vượt hàng trăm cây số đường rừng để đến với con, những đứa con tù tội khốn khổ của bà. Tới trại tù, trước khi được thăm nuôi người ta dạy mẹ tôi và những thân nhân thăm tù, gặp mặt phải khuyên bảo và giáo dục những người tù như chúng tôi câu: “Con ráng học tập tốt rồi nhà nước nhân đạo, khoan hồng tha cho về xum họp với gia đình”.

Bây giờ đã mấy chục năm qua, khi ai nhắc hoặc nghe lại câu này tôi vẫn có cảm giác muốn buồn nôn. Tôi biết sau khi phải học vẹt như thế thì họ mới cho thăm nuôi con mình, không biết cụ đã nghĩ gì. Nhưng có lẽ mẹ tôi rất là đau khổ, tôi chỉ biết thương mẹ và cảm ơn mẹ, khi mẹ gầy hốc hác ngồi trước mặt tôi. Không chừng mẹ đã phải nhịn đói, nhịn khát để mang miếng cơm vào cho con. Một chút gạo, quí giá như những hạt châu ngọc. Vậy mà tôi từng bị tịch thu những hạt gạo ấy, bỏ vào kho, hoặc cho ai ăn không biết, có thể là mấy thằng khốn nạn, có thể lợn gà. Với mẹ, tôi vẫn là đứa con nhỏ bé, dù tôi đã lớn, đã trưởng thành, nhưng những hạt cơm của mẹ cho, tôi coi quí giá như những hạt châu ngọc. Vào thời tù tội đó, mỗi khi ra cổng trại để đi lao động và thoáng gặp những bà mẹ tay xách, nách mang đi thăm con. Tôi lại giấu những giọt nước mắt của mình, lúc đó tôi rất nhớ mẹ tôi…

… Hai giờ rưỡi sáng, tôi đạp xe đạp vào phi trường tiễn mẹ. Phi trường đêm ấy lồng lộng gió. Tiễn mẹ đi đêm ấy, tôi linh cảm thấy không bao giờ còn được gặp mẹ nữa. Dáng cụ xiêu xiêu đi vào phòng cách ly, cụ lại dúi cho tôi những đồng tiền Việt Nam  còn sót lại trong túi, như hồi mấy chục năm về trước…

… Tất cả chúng con đều nhớ mẹ, bàng hoàng khi nhận được tin mẹ qua đời. Cụ thọ vào bậc nhất rồi nhưng sao tôi vẫn buồn. Cụ mất ngày 13 tháng 8 âm lịch bên Mỹ, còn hai ngày nữa là tết Trung Thu ở Việt Nam . Hôm nay ở đây tôi làm lễ phát tang cho mẹ, đúng vào ngày rằm Trung Thu, tôi e rằng trời lại mưa, như nhiều năm tôi ở miền Nam không bao giờ tôi được ngắm trăng rằm.

… Tuổi thơ ấu không bao giờ trở lại với tôi nữa. Tôi muốn khóc vì nhớ mẹ, nhưng còn nước mắt nữa đâu. Một đời mẹ gần một thế kỷ nổi trôi theo vận nước. Những đau thương này thay cho những giọt nước mắt của đứa con nay đã già.

(Rằm tháng Tám năm Gíáp Thân – Nguyễn Thụy Long)

Sau nhiều năm sống lang bạt nơi nầy chốn nọ cho đến khi được trở về với căn nhà cũ số 156/3 (25/12) đường Nhiêu Tứ, phường 7, quận Phú Nhuận… Với thời giá hiện nay, căn nhà cũ nầy có giá nhưng không biết chủ nhân có “sổ đỏ” hay không về chủ quyền?. Nhưng, cuối đời, sống vẫn bất an, gặp phải cảnh tượng đau lòng, có kẻ bên cạnh lấn đất nhà ông, bất chấp pháp luật, ngang nhiên bảo thợ đập phá nhà ông và còn đe dọa thanh toán, tháng 6 và tháng 7 năm 2007, ông làm đơn gởi đến các cơ quan hữu trách nhưng chẳng nơi nào giải quyết. Trong hai năm qua, Nguyễn Thụy Long đành cam chịu tình cảnh oái oăm đó cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay!

*

Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Thụy Long! Ông vĩnh biệt cõi trần, để lại vợ (Nguyễn Thị Thúy) và 3 con còn nhỏ ở Sài Gòn, 4 đứa con lớn của đời vợ trước sống ở hải ngoại./.

Tháng 4-2007 – viết lại 04 tháng 9-2009

Vương Trùng Dương
VIRGIL GHEORGHIU

Shoptinhyeu . vn thuoc115 . com bán các loại thuốc chống xuất tinh sớm, yếu sinh lý, thuốc cường dương tốt nhất thị trường

Thuốc viagra mua ở đâu bán ở đâu giá bao nhiêu rẻ nhất ?
Bạn liên hệ theo số điện thoại đường dây nóng bạn nhé
Nhà phân phối độc quyền
Tại TP HCM : 90/12 Cao Thắng, phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại 0928080808
Đại lý cấp 1 tại Hà Nội, miền Bắc : 243 Định Công Thượng, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại : 0936700000
Đại lý số 2 : 13 B10 mặt phố Phạm Ngọc Thạch, Quận Đống Đa, TP Hà Nội (nằm giữa ngã ba Phạm Ngọc Thạch với Lương Đình Của và Xã Đàn)

website :
shoptinhyeu . vn
thuoc115 . com
giaosutinhyeu . com

xem phim hài 18+

Nếu như những ánh sao băng có tạt ngang bầu trời và để lại chút dấu thời gian….

Saturday, 14 May 2016 Nguyễn Thụy Long (1938 – 2009)

http://phannguyenartist.blogspot.com/

Nguyễn Thụy Long

(1938 – 2009)

Hưởng thọ 71 tuổi

Nhà văn

Tiểu sử 

Nhà Văn Nguyễn Thụy Long sinh ngày 09/08/ 1938 tại Hà Nội.

Mất ngày 03/09/2009, lúc 14 giờ tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Ông  là Cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học, người nổi tiếng với câu: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà vì lòng người ngại núi e sông”.

Năm 1952, Ông và gia đình vào Nam sinh sống tại Sài Gòn.

Cựu học sinh trường trung học Hồ Ngọc Cẩn.

Sinh viên Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định.

Cộng tác báo Ngàn Khơi với nhà văn Nhã Ca  , nhật báo Sống của nhà văn Chu Tử.

Trước 1975, tiểu thuyết đầu tay có tên Vác Ngà Vo i (1965), với bút hiệu Lan Giao. Các tác phẩm sau, đều lấy tên thật Nguyễn Thụy Long.

Năm 1970, tiểu thuyết Loan Mắt Nhung  đã gây tiếng vang lớn từ truyện đến phim do đạo diễn Lê Dân dàn dựng .

Ngoài hơn 30 tác phẩm xuất bản, Nguyễn Thụy Long còn cả trăm truyện ngắn và những tác phẩm sáng tác sau này.

Năm 2005, ông được phát giải Văn Chương Toàn Sự Nghiệp do Nguyệt san Khởi Hành (Mỹ) trao tặng, nhưng vì sức yếu đã không đến dự .

Năm 2009, Ông dồn hết tâm huyết cho bộ bản thảo Vùng  Mả Động,  dự trù khoảng 4000 trang, nhưng đến khi nhắm mắt lìa đời, Vùng  Mả Động  mới viết được hơn 1000 trang.

Tác phẩm tiêu biểu

1

Vác Ngà Voi

(1965, với bút hiệu Lan Giao)

2

Sầu Đời

(Âu Cơ, 1967)

3

Bước Giang Hồ

(1967)

4

Vòng Tay Đàn Ông

(1967)

5

Chim Trên Ngọn Khô

(1967)

6

Loan Mắt Nhung

(1967)

http://vietmessenger.com/books/?title=loanmatnhung

7

Tay Anh Chị

(1968)

8

Bà Chúa Tám Cửa Ngục

(1968)

9

Vết Thù

(1968)

10

Đêm Đen

(1968)

11

Gái Thời Loạn

(1968)

12

Bóng Tối

(1968)

13

Kinh Nước Đen

(1969)

14

Nữ Chúa

(1969)

15

Xóm Cô Hồn

(1969)

16

Kiếp Hoang

(1969)

17

Nợ Máu

(1969)

18

Nhà Chứa

(1970)

19

Ven Đô

(1970)

20

Bão Rớt

(1970)

21

Cầu Cá

(1970)

22

Dấu Chân Gió Chạy

(1970)

23

Biển Đen

(1971)

24

Biệt Thự Phù Du

(1971)

25

Đàn Ông Đàn Bà

(1971)

26

Hạt Giống Của Trời

(1971)

27

Những Cánh Tay Thuồng Luồng

(1971)

28

Tốt Đen

(1971)

29

Vang Tiếng Ruồi Xanh

(1971)

30

Dưới Chân Non Nước

(1972)

31

Gió Hú

(1972)

32

Tử Tội Hoan Hỉ

(1972)

33

Mặt Biển Đen

(1973)

34

Nửa Đời Bóng Tối

(1991)

35

Viết Trên Gác Bút

(1997)

http://vietmessenger.com/books/?title=viettrengacbut

36

Giữa Dêm Trường

(2000)

http://vietmessenger.com/books/?title=giuademtruong

37

Người Xây Lò

(2001)

38

Thìn Ma

(2007)

39

Thân Phận Ma Trơi

Hồn bút

Cái Còng

Cái quần

Kim loại màu vàng

Cái giường

Thân phận ma trơi

Bà Mẹ Sương Sa

Bà cháu, bố con

Ông Đồng trời

Đống gạch

Ngày xưa

Chim trên ngọn khô

Người ở lại thế gian  

……………………………

Ngoài ra, Nguyễn Thụy Long còn 3 tác phẩm mới viết:

*Hồi Ức 40 Năm Cầm Bút

*Hồi Ký Thuở Mơ Làm Văn Sĩ

http://vietmessenger.com/books/?title=thuomolamvansi

* Vùng Mả Động ( 2009 )

Năm 2009, Ông dồn hết tâm huyết cho bộ bản thảo Vùng Mả Động, dự trù khoảng 4000 trang, nhưng đến khi nhắm mắt lìa đời, Vùng Mả Động mới viết được hơn 1000 trang.

Nguyễn Thụy Long

Mối Tình Chung Của Con Đĩ Ngựa

KHÓI nhang bay tản mác trong không khí. Những chấm tàn nhang đỏ nhiều như sao sa cắm ở nghĩa địa bị gió đêm làm rung rinh trong bóng tối. Hồi chiều những thân nhân đi thăm mộ muộn đã thuê người làm cỏ sạch trơn. Mọi khi, vào cuối mùa mưa, nghĩa trang dầy đặc cỏ, um tùm như một vùng cỏ hoang. Nhiều ngôi mộ bị cỏ che khuất, lối đi vào không còn phân biệt nổi từ đâu đến đâu. Những đêm mùa mưa nước ngập ểnh ương kêu y uông vang cả một vùng. Thế mà mới từ hai mươi lăm tết đến giờ, đám cỏ hoang lần lần bị thanh toán. Mùa nắng bắt đầu, đất khô tiện cho việc thân nhân thuê người làm cỏ. Cho đến hôm nay, ngày 30 tết, cọng cỏ cuối cùng đã bị nhặt sạch.

Chiếc lều của “con đĩ ngựa” nằm ngay ven nghĩa địa, tức là ngay cạnh con đường dẫn vào xóm, Không ai biết “con đĩ ngựa” đến tá túc ở đây từ hồi nào. Chiếc lều xinh xinh chỉ kê vừa đủ một cái giường nhỏ, còn lại một khoảng trống dùng làm bếp nấu ăn, đồng thời cũng dùng để nồi niêu chén đĩa. Suốt ngày “con đĩ ngựa” ngồi ở trước cửa, nhặt một rổ lông gà do một người đàn bà đem lại. Sau khi mụ nhặt riêng rẽ chọn lấy những chiếc lông tốt cắm vào nhựa đường quết trên một thanh tre vót tròn dài chừng nửa thước. Tới chiều tối thì mụ có thể hoàn thành được chừng mười cái chổi phất trần. Ngày hôm sau cũng mụ đàn bà ấy tới lấy mang đi bán. 

Đó là kế sinh nhai độc nhất của “con đĩ ngựa ” từ bao nhiêu năm nay. Mụ sống có vẻ sung túc, đôi khi mụ lại còn là chủ nợ của một vài gia đình phu xích lô trong xóm. Không ai quỵt nổi nợ của mụ, suốt ngày khi nào ngừng tay là mụ lại xoe xóe chửi. Mụ chửi trời chửi đất, chửi con nít, chửi tất cả những ai đã có ý khinh khi mụ. Tên tuổi mụ không ai được rõ, người ta gọi mụ là “con đĩ ngựa” nhưng chỉ gọi lén. Nếu mụ nghe thấy, mụ sẵn sàng chửi ra rả từ ngày nọ sang ngày kia. Mười một giờ đêm, khi xóm giềng bắt đầu tắt đèn đi ngủ, mụ lên tiếng chửi lần chót. Bài chửi kỳ này văn vẻ hơn, nghĩa lý hơn, người ở quanh vùng đoán lần rà, biết bài chửi đó mụ dành cho một gã đàn ông nào đó đã một lần đi qua đời mụ. Mối tình không mấy đẹp đẽ, một vụ hiếp dâm thì đúng hơn, Vì bài chửi đó mà mọi người đặt cho mụ cái tên là “con đĩ ngựa”. 

Không ai có thể tưởng tượng nổi là mụ lại có được một mối tình. Người mụ nhỏ thó, da nhăn nhúm, mốc thếch, tóc trên đầu trốc gần hết, để lộ ra từng mảng da có những mụn ghẻ ngứa nhỏ, lúc nào cũng như sẵn sàng bong vẩy, sẵn sàng chảy nước vàng. Hai bàn chân luôn luôn quấn băng trắng, chất mủ loang trên mầu băng hấp dẫn những con nhặng xanh. Chiếc quạt luôn luôn ở bên cạnh chỗ mụ ngồi. Mới đầu, dân trong xóm tưởng mụ bị bệnh cùi. Nhưng cuối cùng họ biết mụ bị ghẻ kinh niên. Hình như không thuốc nào trị dứt nổi bịnh đó cho mụ, Sau bài chửi buổi tối, mụ ngồi tháo băng ra, rửa sạch chân, rắc một chút thuốc bột lên trên những mụn ghẻ lở loét. 

Mụ quấn băng, tắt ngọn đèn hột vịt độc nhất rồi yên chí nằm ngủ. 

ĐÊM cuối năm trời không có một vì sao, đàn ông, đàn bà, trẻ con trong xóm nườm nượp dắt nhau đi lễ lăng Ông. Nhiều nhà đã bày sẵn mâm trái cây ra sân hay trước cửa nhà. Những chấm nhang đỏ lừ ở bên nghĩa địa tàn lụn dần. Mầu đất mới đắp trên mộ trắng nhờ nhờ trong bóng đêm. 

“Con đĩ ngựa” đứng chống nạnh ở ngay bên cạnh lều, mụ nhìn ra nghĩa địa, nhìn mọi người vui vẻ qua lại. Thốt nhiên mụ nhảy chồm chồm xỉa xói vào khoảng trống. Nhiều người thấy vậy nhưng vẫn bình thản đi qua, họ nghĩ khộng dại gì lại dính vào “con đĩ ngựa” rước xui vào người. Trước mặt mụ hình như có một kẽ chịu trận, một kẽ vô hình nào đó hứng chịu tất cả mọi lời mọi tiếng gớm ghiếc của mụ : 

– Đồ chó đẻ, quân khốn nạn, quân bạc nghĩa. Chính mày đã phá hoại đời bà, mày trốn đâu hả quân phụ tình phụ nghĩa kia ? Ông trời có mắt mày ơi ! Bà mà túm được mày lúc này thì bà xé mày ra trăm ngàn mảnh cho coi… 

Mụ gào lên, giọng chanh chua như pha dấm : 

– Bà là người đàng hoàng, bà đâu phải là “con đĩ ngựa” để mày muốn xiên xỏ sao cũng được. Mày phá hoại đời bà thì trời tru đất diệt mày. Trời ơi là trời, sao trời không có mắt, sao trời không sai thiên lôi đánh tan xác quân phụ tình bỏ ngãi ấy đi. Bà sẽ chửi hoài chửi hủy, bà chửi tời thấu trời xanh mây trắng để tru diệt cả giòng họ nội ngoại nhà mày. Bà có chết xuống âm ti địa ngục bà sẽ lộn kiếp đầu thai vào nhà mày, phá tan hoang cả giòng giống quân bạc tình phụ ngãi. 

Càng chửi bới dữ dằn “con đĩ ngựa” càng thấy hình ảnh nghênh ngang của kẻ bạc tình hiện ra càng rõ. Lời chửi của mụ càng trở nên ray rứt, rền rĩ rồi trở thành than thân trách phận. Trước mắt, mụ lúc này như hiện ra tất cả hình ảnh một đêm xưa. Cũng con hẻm này đây, đêm đó tối trời, nồng nực. Trời nóng quá không chịu nổi, đang nằm trên giường quạt phành phạch, mụ ngồi bật dậy, vén mùng chui ra, khêu to ngọn đèo. Mụ ra cửa đứng hứng gió. Đêm yên lặng, không có một ngọn gió nào. Cây cối đứng yên phăng phắc. Trên bầu trời đen lác đác vài vì sao. Mụ quạt luôn tay vậy mà mồ hôi vẫn chảy ròng ròng trong áo. Mụ cổi lần từng chiếc nút áo, quạt lùa vào trong thân thể. Hễ ngưng tay quạt mồ hôi lại rin rịn chảy ra. Xung quanh mụ tiếng muỗi đói reo vo vo. Mụ phát bực mình, mụ cằn nhằn chửi : 

– Đ. má cái con mụ nội thằng trời, giờ này mà mày còn làm nóng người bà. Gió lên mày, không gió lên bà chửi chết cha cả mày luôn. Bà chửi hoài chửi hủy cho tới sáng, tới ngày hôm sau. Bà chửi khi nào mày nổi gió mát thì thôi. 

Mụ vừa cằn nhằn vừa quạt phành phạch không ngơi tay. Chợt mụ để ý đến một nhà lầu trong xóm, bỗng nhiên mụ thấy căm tức. Trời nóng như vậy mà chúng nó đóng cửa im ỉm. Hẳn nhiên lúc này trong căn phòng ngủ đó có một đôi vợ chồng đang thỏa thích trước hơi mát của quạt máy. Mụ tưởng tượng ra tiếng quạt kêu vo vo trong phòng, và đôi vợ chồng ôm nhau ngủ thiêm thiếp. Họ sung sướng quá. Vậy mà giờ phút này thì mụ lại cực khổ hết sức, mụ suy đi tính lại một hồi lòng ghen ghét càng tăng, cuối cùng bật ra khỏi cổ họng : 

– Cha cái con đĩ mẹ vợ chồng ở cái nhà lầu kia kìa (mụ chỉ tay ra phía nhà lầu). Mày thức dậy đi, mày mặc quần áo vào đi rồi giắt díu nhau ra cửa sổ nghe bà chửi đây này. A, chúng mày sung sướng, chúng mày ở nhà lầu, đi xe hơi, ngủ có giường nệm quạt máy. Chúng mày ăn sung mặc sướng có lúc nào chúng mày nghĩ đến dân nghèo mụt rệp như tao không. Chúng mày khi người như rác, chúng mày sợ dân nghèo ăn trộm nên cửa đóng then cài phải không ? !… Ôi đừng có phách lối, con này chửi cho thối mồ thối mả chúng mày ra. Con này sẽ chửi cho ông cố nội nhà mày đội mồ chui lên nghe kia. Chúng mày khinh khi tao, chúng mày đóng cửa im ỉm không thèm ra nghe tao chửi sao… hả, vợ chồng thằng nhà lầu xe hơi kia ? 

Mụ bất kể đêm hôm khuya khoắt, mụ nhảy loi nhoi, xỉa xói, tiếng chửi của mụ the thé vang trong đêm khuya. Hàng xóm láng giềng thức giấc. Họ chỉ càu nhàu lấy lệ, không ai muốn dính dáng gì đến mụ. Nếu trong lúc này có một người quá bực mình lên tiếng, mụ sẽ có đối thủ. Mũi dùi của mụ sẽ hướng về kẻ đó và mụ rất có thể có gan chửi cho tới sáng. Người ta có cảm tưởng mụ dám chửi cho đến rã họng, lăn quay ra chết như con ve sầu cuối mùa hạ. Mụ dữ dằn như một con chó con mới biết sủa bị cột cổ vào chân giường, con chó con thì ong óng sủa khi thấy bóng người, mụ cũng vậy, Mụ chửi vì những lý do không đâu. Chửi cho có chuyện, cho đỡ ghiền. 

Mụ chửi tàn sát, độc ác, mỗi ngày thêm được một vài danh từ mới tục tằn rất mực. Hình như những lúc ngồi bới lông gà là những lúc mụ nghĩ thêm câu chửi, khi xong việc mụ mang ra xài liền. 

Lũ nhãi ranh trong xóm coi mụ như một đồ giải trí, chúng dắt nhau đi chơi chán, khi về qua túp lều của mụ chúng dừng lại, nhìn vào trong hối thúc : 

– Ê, mẹ cùi chửi đi chó ! 

Nói xong chúng dắt nhau ù té chạy, Thế là mụ nhào ra cửa ong óng chửi cả tiếng đồng hồ, những đứa trẻ trong xóm đã bỏ đi chơi đâu mất tiêu. Khi mụ ngừng tiếng chửi, lũ trẻ lại đến chọc phá. Nhiều lần mụ đã bị bệnh vì chửi quá nhiều. 

Trời vẫn nóng nực như đổ lửa. Mụ quạt phành phạch luôn tay. Mụ lửng thửng đi dạo. Mụ đã ngừng chửi cái nhà lầu. Bây giờ mụ lại van vái Trời Phật cho xin ít gió. Mụ chợt nghĩ đến lu nước, hay là mình tắm một cái cho khoan khoái. Phải đó, mụ lửng thửng đi ra khạp nước để ngay bên cạnh nhà, mụ mở nắp khoắng tay vào đó. Nước còn lưng khạp. Mụ cổi quần áo máng lên hàng rào ngăn cách nhà mụ với nghĩa địa. Mụ ngồi thụp xuống cầm chiếc ca nhôm nhỏ múc từng ca xối lên người. Mát mẻ, mụ đưa tay vuốt từng giọt nước cho ướt đều khắp châu thân. Đêm trở lại yên tịnh sau khi mụ ngưng chửi bới. Chĩ còn tiếng nước đội ào ào và tiếng bàn tay vỗ bì bạch trên thân thể mụ. 

Bỗng nhiên mụ ngưng dội nước, hình như có tiếng chân người đi từ xa lại. Lẫn trong tiếng chân bước còn tiếng lè nhè hát hỏng không ra đầu ra đuôi : 

– Hỡi ơi sương mờ lác đác, nhìn ánh trăng mà lạnh lẽo cái cõi… a… a lòng… 

Sau câu vọng cổ có tiếng cười khà khà nổi lên. Tiếng cười và tiếng hát ấy của một người đàn ông say túy lúy. Mụ đoán chừng vậy. Tiếng hát lại một lần nữa nổi lên : 

– Đám cưới của em mời bà… con lối xóm, chỉ có riêng anh là… đíu có ai mời.,. Em biểu chồng em đẹp, chồng em sang… chồng em đứng… đắn đàng.. goàng… Còn anh thì… đíu có đàng… goàng… Đíu đàng goàng, sức mấy mà… đàng goàng… Anh là thằng điếm… á… á… là thằng đàng… từng… tưng, tức, tưng tức, cái bụng… á… á… tức à… á… cái mình. 

Sau lời ca của gã đàn ông là tiếng ngã lụi đụi. Hình như hắn đi đến gần hơn, gần hơn nữa. “Mụ cùi” (khi đó con đĩ ngựa còn cái tên mụ cùi) vội vàng vơ quần áo ôm vào người. Gã đàn ông lại té đến rầm vào cửa nhà mụ, Mụ la lên: 

– Thằng nào đó ? 

Gã đàn ông im lặng một lát, có lẽ gã nghe ngóng, rồi chắc hắn nhận ra tiếng đàn bà, gã cười khinh khích : 

– Anh đây cưng, em ở đâu vậy cưng ? 

Mụ cùi vẫn ôm quần đứng ở cạnh nhà, mụ hét lên : 

– Cút đi, đồ bợm nhậu, bà đang tắm. 

Gã đàn ông á à một tiếng rồi nhẩy chồm ra sau. Gã tới trước mặt mụ, gã khật khưởng ; nhe răng ra cười: 

– Ối chu choa ! Nàng tiên của anh tắm đấy sao ? 

Hắn dụi mắt, mụ cùi lùi dần, lùi dần tới sát hàng rào thép gai : 

– Cút đi, lộn xộn tao la…

Người gã đàn ông sặc mùi rượu, áo mặc trên người gã phanh ngực, gã lì lợm tiến lại, miệng cười toe toét : 

– Khỏi có ngán đi, thằng này chịu chơi mà, duyên kỳ ngộ. 

– Kỳ hôn, đi đi, người ta đàn bà con gái mà

– Há, đàn bà con gái sao ? tốt, tốt, đàn bà con gái thì tính theo đàn bà con gái. 

Gã vươn hai cánh tay dài như cánh tay vượn ra, mụ cùi không còn lối thoát mụ há miệng la : “Bớ người ta !” Nhưng miệng mụ ta bị bàn tay của gã đàn ông bịt chặt.. Mụ rẫy rựa, cào cấu, nhưng vô hiệu trước thân hình rắn chắt khỏe như vâm của gã đàn ông. Tiếng gã đàn ông thều thào : 

– Ôi sao em đẹp vậy, người em mát như đá. 

Gã bồng thốc mụ lên đi vào nhà, ném lên giường. Gã co chân đạp cái cửa xập lại. Trong bóng tối tiếng mụ cùi yếu dần : 

– Tao la à ! 

– La đi ! 

– Ái ! bớ… 

Tiếng gã đàn ông trở nên bay bướm : 

– Em ơi ! duyên nợ nào đưa anh tới đây… Ôi nàng tiên bé nhỏ của anh. Nàng tiên có tiếng nói trong như pha lê, tiếng cười như hột soàn và đôi mắt mơ huyền vương áng mây chiều ! 

Trong nhà có tiếng động mạnh, tiếng gã đàn ông thở dài: 

– Người em sao thơm vậy ? 

Tiếng trả lời của mụ cùi, lần này dịu lại : 

– Người ta tắm bằng sà bông Cô Ba ? 

– Cô Ba hả, đâu ? 

– Đồ điếm, sà bông Cô Ba chớ không có cô ba nào ở đây hết trơn á ! Coi kìa cái mặt dầy… 

Tiếng gã đàn ông cười hì hì : 

– Ờ ờ ! sà bông Cô Ba. 

Ngọn đèn dầu lụi dần, chỉ còn một đốm sáng xanh nhỏ bằng hạt đậu. Bên ngoài trời bắt đầu nổi gió, cơn gió mạnh rung chuyển lá cây, thì ra cơn nóng hồi tối chỉ để sửa soạn cho một trận mưa lớn. 

Gần sáng mụ cùi tỉnh dậy. Mưa vẫn còn rỉ rả bên ngoài. Gã đàn ông nằm bên cạnh đã ngủ say. Mụ trở đậy khêu to ngọn đèn. Mụ muốn nhìn cho rõ mặt gã đàn ông, Ánh sáng yếu ớt chiếu qua mùng, gã đàn ông nằm ngửa tênh hênh, thân hình hắn to lớn chiếm già nửa cái giường. Khuôn mặt hắn khá dễ thương, lổ mũi cao, da xám xạm. 

Thốt nhiên mụ cùi thấy lòng mình náo nức, mụ hoang mang sau cuộc giao hoan. Mặt mụ thoáng vui, mụ mỉm cười trong bóng tối nhè nhẹ, Mụ kéo mền phủ lên người đàn ông xa lạ. Mụ vuốt ve sống mũi cao của gã, mụ dí ngón tay vào trán gã : 

– Bê bối, thiệt là bê bối vậy đó. 

Gã đàn ông cựa mình, ú ớ, người gã vẫn còn nồng nặc mùi rượu. Mụ cùi lay tay gã : 

– Này, dậy người ta nói chuyện này cho mà nghe. 

Gã đàn ông chép miệng, giọng mê ngủ : 

– Yên, người ta ngủ. 

Mụ cùi vẫn nhẫn nại lay cánh tay gã : 

– Anh đã phá đời tôi anh tính sao đây ? 

– Tính gì ? 

Mụ cùi đay nghiến : 

– Còn tính gì nữa hả, anh có chịu lấy tôi không ? 

– Há ! lấy à, ừ thì lấy. Nhưng để người ta ngủ. 

Mụ cùi như không nghe thấy câu nói chót của gã, Mụ hỏi tới : 

– Thiệt há ! lấy thiệt há, thằng nào nói láo thì sao ? 

– Ừ… ừ ! 

– Ừ cái con mụ nội anh ấy à ! Thề đi, thằng nào mà phản bội thì nó chết đâm chết chém, thì Tây bắn, Chí Hòa kêu. 

– Ừa! 

Gã đàn ông trả lời ú ớ vài câu rồi xoay lưng ngủ ngáy khò khò. Mụ cùi nằm bên cạnh mở mắt nhìn lên mái lá. Mưa vẫn rơi ào ào bên ngoài, ngọn đèn dầu chấp chới như muốn tắt đến nơi. Nếu điều mong muốn đó là sự thật. Mụ nghĩ thầm, mụ nhìn sang gã đàn ông nằm bên cạnh, mụ vuốt ve tấm lưng to lớn của gã với dáng điệu trìu mến. Nếu hắn chịu ở lại đây, chịu làm chồng mụ. 

Lần đầu tiên trong đời mụ vừa thấy tâm hồn thoải mái vừa lo lắng. Mụ lim dim mắt. Hắn đã thề rồi, liệu hắn có chịu giữ lời hứa không ? Lời hứa của một gã đàn ông trong cơn say rượu. A hồi nãy hắn nhắc đến một con đĩ nào, con đĩ chó đẻ nào đã làm gã nhớ thương, làm gã trở nên say sưa rồi bậy bạ. Mụ cau mày trong bóng tối, mụ nghiến chặt hàm răng. 

Mự lại nhìn sang gã đàn ông nằm ngủ còng queo bên cạnh. Tổ sư mày yêu thương bà hồi nào đâu. Thốt nhiên mụ thấy mình đau đớn khốn cùng. Mụ thấy ức uất trong lòng, mụ chồm dậy, lay người gã : 

– Hồi nãy mày nhắc con nào, con nào hả thằng ma cao kia ? 

Gã đàn ông choàng tỉnh dậy, ngơ ngác: 

– Cái gì đó ? 

– Hồi nãy mày say rượu mày nhắc đến con đĩ chó nào ? 

Gã đàn ông hừ một tiếng, đưa bàn tay hộ pháp đè mụ nằm xuống : 

– Lộn xộn hoài, ngủ đi mai nói chuyện. 

Mụ yên phận nằm yên nhưng mụ thấy khổ sở xốn xang trong lòng. Gã đàn ông lại ngủ tiếp, tiếng ngáy lúc này nghe nặng nề hơn và mụ chảy nước mắt, mụ có cảm tưởng mình sẽ không thể sống cô đơn như trước được nữa. Gã đàn ông đã đến, đã làm xáo trộn đời sống bình thường của mụ. Gã đến với cơn say của men rượu, với đam mê với sự tàn bạo, phũ phàng như cơn lốc. Anh không thể ra đi, tao không thể mất mày hỡi thằng khốn kiếp kia ơi ! Tao sẽ giết mày nếu mày bỏ tao. Tao không là con điếm, tao là người đàng hoàng. Tao sẽ chiều chuộng săn sóc mày. 

Mụ cùi lén chùi nườc mắt trong bóng tối nhờ nhờ. Mụ tạm bíu lấy hy vọng hảo huyền do lời thề của gã đàn ông. Ôi khuôn mặt dễ thương đó đâu có phải hạng người đễu giả. Tự an ủi, mụ thấy tâm hồn mình bình thản trở lại, mụ tưởng tượng đến một tương lai sáng sủa bắt đầu từ ngày mai. Nếu anh không chịu làm việc em sẽ nuôi anh, nuôi anh mãi mãi. Em sẽ dạy anh nghề làm chổi lông gà. Anh sẽ ở bên em mãi mãi cho đến chết, đến đầu bạc răng long. Em không còn chịu đựng nổi sự cô đơn nữa. 

Thế rồi mụ ngủ thiếp đi trên đôi môi khô héo của mụ thoáng nở một nụ cười trong giấc mơ. 

Gần sáng mưa ngớt gã đàn ông tỉnh dậy, gã thấy hai đùi bị đè nặng, thì ra hai chân của người đàn bà hồi hôm gát qua. Gã nhẹ nhàng bỏ chân xuống. Lúc này gã chợt ngửi, thấy một mùi tanh tưởi, bàn tay gã dính nhơm nhớp khi đụng tời cẳng chân của mụ. Hắn ngồi dậy dụi mắt, vén mùng thò tay ra khêu ngọn đèn. Ánh sáng bừng lên, lọt qua vải mùng vá chằng vá đụp. Người đàn bà vẫn say ngủ. Hắn nhìn rõ dần thân thể mụ gầy còm, ốm yếu, mái tóc xổ tung những vết tróc trên đầu, những mụn nhọt trên người và hai bàn chân lở lói. Hắn nhích người ngồi xa ra, đôi mắt hắn quắc lên đầy nét kinh dị, Ghê vậy sao? Suốt đêm qua mình đã ăn nằm với mụ đàn bà này sao ? Bậy thật, mình đã ôm ấp một con mẹ cùi hủi. Hắn lùi dần, lùi dần, bỏ thõng chân xuống giường, hắn chui ra khỏi mùng, hắn dón dén ra cửa, hắn đẩy nhẹ cánh cửa bước ra ngoài. Khi thoát ra khỏi ngưỡng cửa, hắn ù té chạy, mặc những vũng nước, vũng bùn dơ đáy vung đầy người đầy mặt. Hắn vừa chạy vừa lầm bầm: Bậy thật ! bậy thật. Hắn thấy đầu óc mình trống rỗng. Lúc đó vẫn còn tối trời. 

Trong căn lều nhỏ mụ cùi cũng vừa tỉnh đậy, mụ xoay mỉnh choàng ôm vào khoảng trống. 

GIỜ giao thừa đã đến, những người đi lễ lăng Ông đã trở về xông đất. Già trẻ lớn bé trên tay mỗi người cầm một nhánh lộc. Lời chúc tụng vang khắp xóm. 

Mùi nhang thơm tỏa rộng một vùng. Những bàn thờ lộ thiên bày ngoài sân đốt đèn sáng, nhang được thắp lên. Ở trước mỗi bàn thờ có một người đàn bà chắp tay khấn khứa. 

Con đĩ ngựa đã thôi chửi, mụ ngồi ở bậc thềm nhìn thiên hạ quần là áo lượt qua lại nườm nượp. Tiếng pháo khắp nơi reo lên đón mừng xuân tới. Con hẻm dài hun hút vậy mà nhà nào cũng có một bàn thờ. Những chấm nhang đỏ lung linh trong gió đêm. Con đĩ ngựa vẫn ngồi ở bậc cửa, mụ chong mắt nhìn vào bóng đen, nhìn những người lác đác ra về, trên tay ai nấy đều cầm một cành lộc. Bỗng nhiên mụ xòe bàn tay lở lói của mình ra nhìn vào đó. Mụ nấc lên, mụ thấy mình hoàn toàn cô đơn, tất cả mọi người đã bỏ quên mụ, ghê gớm mụ. Đã qua bao nhiêu mùa xuân rồi nhỉ. Bao nhiêu mùa xuân trong tay mụ không cầm được một cành lộc non. Cành lộc đã vuột khỏi bàn tay lở lói của mụ để chạy trốn. Như gã đàn ông say sưa đêm nào. Nghĩ đến gã đàn ông, mự nấc lên khóc, mụ úp khuôn mặt nhăn nhiu vào hai bàn tay lở lói. Tại sao không có một cành lộc trong tay. Tại sao vậy hả trời. Mụ thấy nghẹn ở cổ họng, nước mắt loang đầy mặt, mụ đứng dậy ngóng về đầu xóm. Chính nơi đó đêm nào gã đàn ông đã đến. Trong số người đi qua đêm nay không có bóng dáng gã. Ta chửi bới mãi có ích lợi gì đâu. Hắn đã phản bội rồi. 

Hai đứa bé gái quần áo tươm tất đi qua, mỗi đứa đều cầm một cành lộc trên tay. Chúng nó cười vui vẻ, chúng thúc hối nhau về nhà cho sớm để lấy tiền lì xì. Khi tới chỗ mụ đứng, chúng ngước lên nhìn. Mụ cúi xuống mỉm cười trong khi mặt còn nhòe nhoẹt nước mắt : 

– Tụi bay cho tao cành lộc đi. 

Chúng nó trợn mắt lên, nghiêng đầu nhìn mụ : 

– Cho bà đâu có được, tụi này phải tới tận lăng Ông mới hái được chớ bộ. 

Bỗng nhiên mụ nổi nóng: 

– Tụi bây có cho tao không ? 

– Không ! 

Hai đứa bé lùi dần, mụ gay gắt : 

– Không hả ?

Hai đứa bé vùng chạy, mụ đuổi theo, đứa chạy sau kêu thét lên :

– Bớ người ta !

Mụ chồm lên và ngã chúi. Những chiếc mụn lở loét ở dưới chân lại nhức nhối. Hai đứa bé đã chạy xa, chúng vẫn thay phiên kêu gào. Chúng chỉ còn là hai điểm trắng loảng dần trong bóng tối. 

Con đĩ ngựa lồm cồm bò dậy, nhưng mụ lại ngã chúi xuống. Hơi đất lạnh xông lên khắp người mụ, mụ áp má xuống mặt đất, bàn tay quờ quạng sờ mò. Nước mắt mụ ứa ra nhòe nhoẹt, cảnh vật ban đêm đã mờ càng mờ thêm. Mụ nằm bất động trên mặt đất… 

Gia-Định 2 – 1965

NGUYỄN THỤY LONG

Trích từ tập tuyện ngắn BA MIỀN MƯỜI KHUÔN MẶT, do Kim Anh xuất bản 1966. 

Nguyễn Thụy Long

Hồi Ức Về Mẹ

LTS. Tuần trước, Việt Báo có đăng một cáo phó: Cụ bà quả phụ Nguyễn Thụy Nhân, nhũ danh Phạm Thị Miên, pháp danh Diệu Thiện đã mệnh chung lúc 16 giờ 1 phút chiều 26 tháng 9 năm 2004, nhằm ngày Giáp Thân, tại Bệnh Viện Fountain Valley, California. Lễ di quan và hoả táng đã được tổ chức vào lúc 11 giờ ngày 1 tháng 10 năm 2004. Người trưởng nam của cụ, nhà văn Nguyễn Thụy Long hiện sống ở Saigon, không được cùng hai em ở bên Mẹ lúc cụ lâm chung. Từ bên kia đại dương, nơi căn nhà cũ, nhà văn viết “Hồi Ức Về Mẹ.” 

Đã mười mấy năm nay, mỗi buổi sáng tôi không còn nghe tiếng dép quen thuộc của mẹ nữa ở phòng bên cạnh. Cụ dậy thật sớm, quét tước nhà cửa rồi pha lấy một ấm trà, một ly cà phê, cụ ngồi nhâm nhi chờ trời sáng hẳn. 

Nằm ở phòng bên này nhà, mái tôn chung, chỉ ngăn cách bằng một bức tường lửng và tấm cửa gỗ mỏng, tôi tưởng tượng ra được đủ thứ, từng công việc của mẹ. Nào là lúc cụ pha trà vào cái bình trà nhỏ xíu có hình tiên ông, ly cà phê cụ pha vào cái phin bằng đồng của tôi được người ta tặng hồi làm báo, mà bà giữ rất lâu, mấy chục năm trời. Cái phin này cụ giữ mới còn, nếu vào tay tôi hồi đó thì đã ra chợ trời lâu rồi. Thời gạo châu củi quế, cái gì cũng bán được ngoài chợ trời. Thuở ấy sao mà khổ thế, sau ngày 30 tháng Tư năm 75, miền nam bại trận, tôi thất nghiệp, hết thời. Sau khi sách báo xuất bản ở miền Nam trước năm 1975 đều bị người thắng trận đốt sạch, và ký giả, nhà văn thì bị bắt bỏ tù coi như tội đồ, đổ cho nhiều thứ tội. Nhà báo, nhà văn chúng tôi bị kỳ thị ra mặt, bị coi như cùi hủi. Những nhà báo nhà văn chế độ cũ, còn một chút gì trong đầu phải tự gác bút mà thôi, tôi ở trong số người ấy. Niềm đau ấy còn mãi đến bây giờ. Mặc dầu tôi từng được công an khuyên nên quên đi để xây dựng đất nước, nhưng làm sao tôi quên được, khi niềm đau của tôi vẫn còn mãi trong ký ức. Bao nhiêu là đám giỗ của người thân quen vào ngày 30 tháng Tư, mà phải đổi lại ngày âm lịch là ngày 19 tháng Ba năm ấy, để khỏi bị làm phiền, trong khi người ta ăn mừng chiến thắng tưng bừng, cờ xí rợp trời và những phát biểu của vị nguyên thủ quốc gia cùng những người có công trong chiến thắng ấy. Khi đất nước hoàn toàn giải phóng và thống nhất, mang lại hoà bình cơm no, áo ấm cho toàn dân. Sao những người như tôi vẫn thấy đau, vẫn khốn khổ. Vì nhiều thứ, từ những cuộc chia ly người gia đình, mà tưởng chừng như không bao giờ còn gặp lại nữa và tiễn những người thân vượt biên ra đi, để có người còn trở lại, có người vĩnh viễn nằn dưới lòng biển đông. 

Những buổi sáng như thế, ở ấp Đông Ba xưa, nay là phường Bẩy quận Phú Nhuận. Căn nhà xưa của gia đình, mẹ tôi gìn giữ nó, không để cho bị tịch thu, vì anh em tôi đều bị đưa đi học tập cải tạo hết rồi. Mẹ ở một mình trong căn nhà ấy, đồ đạc trong nhà có gì bán dần, bán mòn đi để ăn và thăm nuôi hai anh em chúng tôi trong trại học tập. Cụ lặn lội vượt hàng trăm cây số đường rừng để đến với con, những đứa con tù tội khốn khổ của bà. Tới trại tù, trước khi được thăm nuôi người ta dạy mẹ tôi và những thân nhân thăm tù, gặp mặt phải khuyên bảo và giáo dục những người tù như chúng tôi câu: “Con ráng học tập tốt rồi nhà nước nhân đạo, khoan hồng tha cho về xum họp với gia đình”. 

Bây giờ đã mấy chục năm qua, khi ai nhắc hoặc nghe lại câu này tôi vẫn có cảm giác muốn buồn nôn. Tôi biết sau khi phải học vẹt như thế thì họ mới cho thăm nuôi con mình, không biết cụ đã nghĩ gì. Nhưng có lẽ mẹ tôi rất là đau khổ, tôi chỉ biết thương mẹ và cảm ơn mẹ, khi mẹ gầy hốc hác ngồi trước mặt tôi. Không chừng mẹ đã phải nhịn đói, nhịn khát để mang miếng cơm vào cho con. Một chút gạo, quí giá như những hạt châu ngọc. Vậy mà tôi từng bị tịch thu những hạt gạo ấy, bỏ vào kho, hoặc cho ai ăn không biết, có thể là mấy thằng khốn nạn, có thể lợn gà. Với mẹ, tôi vẫn là đứa con nhỏ bé, dù tôi đã lớn, đã trưởng thành, nhưng những hạt cơm của mẹ cho, tôi coi quí giá như những hạt châu ngọc. Vào thời tù tội đó, mỗi khi ra cổng trại để đi lao động và thoáng gặp những bà mẹ tay xách, nách mang đi thăm con. Tôi lại giấu những giọt nước mắt của mình, lúc đó tôi rất nhớ mẹ tôi. 

Tôi và những bạn bè có những nỗi đau giống nhau, có thể họ có những mất mát lớn hơn tôi nhiều, vậy mà chúng tôi vẫn cố gắng sống, chỉ người nào chịu đựng không nổi nữa thì chỉ còn một lối thoát là chết hoặc câm lặng để sống mòn. Tôi không đủ can đảm nên chọn cách sống mòn và mấy chục năm qua, tôi đã là một lão già ốm đau dặt dẹo, gần đất xa trời, chưa biết bao giờ thì xa lìa trần thế. 

Nhận được tin sét đánh mẹ ra đi do bạn tôi (Từ, Nhã) báo tin qua điện báo, tôi rất buồn. Hồi ức về mẹ sống dậy trong tôi. 

Tôi tuổi ngũ thập tri thiên mệnh, giắt díu vợ con về sống bên mẹ, trước những ngày mẹ sẽ đi nước ngoài do em gái tôi bảo lãnh cho cụ. Tôi là người không có hộ khẩu, không có gì hết ngoài tờ giấy ra trại, và cũng đã từng bị đuổi khỏi nơi cư trú vì không có quyền công dân. Nhưng tôi cứ liều trở về ngôi nhà cũ để sống bên mẹ, dù có bị kết tội là “cư trú bất hợp pháp trên căn nhà mình làm chủ”. Và sẵn sàng khăn gói quả mướp đi tù thêm một lần nữa, nếu họ muốn bắt tôi về tội ngoan cố hoặc chống đối gì đó, tôi cũng thây kệ cha nó! 

Buổi sáng khi tôi nghe những tiếng động và tiếng dép của mẹ ở phòng bên cạnh, ngăn cách bằng một bức tường lửng, cánh cửa thông sang. Tôi cũng thức giấc, sửa soạn cho một chuyến đạp xe thồ xuống tận Long An buôn vài giạ gạo để kiếm tiền chênh lệch về nuôi vợ con. Thằng con trai út của tôi, thằng Cua, lẫm chẫm xách bị quần áo của cụ, mà vợ tôi giặt chiều qua mang ra trước cửa sổ để đưa cho bà nội. Con chó Ki của bà nội, lẩn quẩn bên chân bà mừng rối rít. Nó phởn phơ, hạnh phúc. Nó cũng thương bà cụ, tôi biết tối nào nó cũng nằm ngủ dưới gầm giường của cụ để canh chừng. Phòng của bà cụ có cửa sổ nhìn qua hàng rào sang chùa Huê Nghiêm. Ở căn nhà này gia đình tôi đã nghe tiếng tụng niệm tiếng cầu kinh đều đều cả mấy chục năm trời, với tiếng chuông chùa buồn vang vọng lan xa tới những nếp nhà tranh cuộn mình trong khói lam chiều, và cũng từ nơi này tôi trở thành nhà văn, nhà báo. 

Hồi ức về mẹ thì nhiều lắm, với một bà cụ sống gần trọn thế kỷ. Từ những ngày thơ ấu ở Láng ngoài Bắc, trận chết đói năm Ất Dậu, 1945, rồi ngày Hà Nội nổ súng kháng chiến đánh đuổi thực dân Pháp, ngày mà nhiều người yêu nước trẻ ôm bom ba càng lao vào xe tăng địch để trở thành chiến sĩ vô danh, những ngày chạy tản cư lên mạn ngược, bố tôi từng theo kháng chiến, mẹ tôi phải gói những chiếc bánh gai đi bán, nuôi anh em tôi thời thơ dại, tiếp tế cho bố, đang đeo đuổi cuộc kháng chiến chống thực dân. Gia đình tôi hồi cư về Hà Nội, mục đích chính là để cho tôi được học hành, không phải là học để trở thành một thứ nhi đồng, sẵn sàng đấu tố cha mẹ hoặc tố cáo cha mẹ là Việt gian hoặc được dậy dổ phải căm thù tầng lớp trí thức tiểu tư sản, mà cha mẹ tôi là những người thuộc tầng lớp ấy, làm vừa lòng những ai đó đang cầm quyền sinh sát ngoài vùng kháng chiến. Bố tôi cũng trở về Hà Nội mang theo bệnh sốt rét kinh niên. Trước ngày chia đôi đất nước, gia đình tôi đã vào miền Nam sinh sống, chính xác là Sài Gòn, rồi bố tôi mất, khi đó tuổi ông còn rất trẻ. 

Sau đó cuộc di cư vĩ đại của người miền Bắc năm 1954, mang theo bao nhiêu bạn bè đồng hương của tôi, căn nhà gỗ lợp tôn của gia đình tôi ở hẻm Phát Diệm, mà ngày xưa có tên là sở rác Nguyễn Tấn Nghiệm, vùng Cầu Kho, đã đón bao nhiêu những người bạn nhỏ của tôi, khi đó các anh còn ở trại học sinh Phú Thọ. Những bữa cơm Bắc kỳ, cà pháo chấm mắm tôm, canh cua rau đay của mẹ mời, làm các anh cũng ấm lòng, đỡ nhớ quê hương. 

Chúng tôi mon men theo nghiệp thơ văn. Căn gác của tôi lưu lại biết bao nhiêu là thơ văn của Trần Dạ Từ, thơ của Đỗ Quí Toàn, nét bút tài hoa của Lê Đình Điểu, anh thường sang nhà tôi chơi, thơ lục bát của Viên Linh và nhiều những bài thơ, bản thảo của các bạn khác nữa, những bài thơ viết lên vách ván hoặc giắt trên mái tôn. Từ cửa của căn gác gỗ luôn luôn mở rộng tôi nhìn lên thấy tháp chuông nhà thờ Huyện Sĩ và nhìn xuống thì thấy con hẻm lầy lội, cái máy nước suốt ngày đông đảo người gánh, đôi khi xảy ra xô xát, cãi vã, cả chửi thề, chính anh em chúng tôi cũng phải đứng canh để xách nước cho gia đình, trong xóm lúc nào củng ồn ào, có tiếng ca cải lương của một cô gái nào đó mơ ước một ngày nào mình trở thành đào cải lương, sáng chói trên sân khấu, thời đó là thời của Út Trà Ôn, của Thành Được, của Hữu Phước, của Út Bạch Lan v.v.. những chuyện nhậu nhẹt ăn nói lung tung của những anh bất mãn đời vì nghèo. 

Căn nhà đó không còn nữa khi mẹ tôi thất bại trong chuyện làm ăn, bà phải bế đứa em gái nhỏ của tôi đi Lào cùng với bà Dì tìm đời sống khác, tiếp tục nuôi anh em chúng tôi, dưới mắt bà chúng tôi vẫn là những đứa trẻ nhỏ dại, cần đến sự săn sóc của bàn tay người mẹ. 

Ngày mẹ tôi đi Lào thật nghèo nàn, tôi tiễn mẹ ra sân bay Tân Sơn Nhất, mẹ mặc áo cánh trắng quần đen, trên tay bế đứa em gái tôi, xách theo một bị quần áo, không có lấy chiếc va ly, mẹ còn kịp cho tôi mấy chục đồng bạc, tiền bà còn sót lại không thể tiêu được ở xứ người. Mẹ tôi đi vào phòng cách ly cùng với đám hành khách đông đảo, tất cả mọi người đều ăn mặc sang trọng, riêng mẹ tôi và em gái tôi thì nghèo nàn đến thảm hại. Khi đó nước mắt tôi mới chảy ra, mẹ và em tôi khuất bóng sau cửa kính tôi mới quay đi, tôi ra bãi cỏ trước phi trường nằm ngửa mặt nhìn lên trời nắng gắt xem chiếc máy bay nào đưa mẹ và em tôi đi. Thằng em trai tôi thì ở lại sống nhờ vả họ hàng, hy vọng còn được học hành đàng hoàng. Đó là lần thứ hai trong tuổi đời còn non trẻ của tôi phải chịu đựng nỗi buồn xa mẹ. Lần thứ nhất khi còn ở Hà Nội, tôi chia tay với mẹ, để mẹ cõng thằng em trai tôi lên chiến khu tìm bố. Buổi sáng hôm ấy Hà Nội có sương mù, tôi đứng trên bao lơn ở số nhà 38 ngõ Hoà Mã, nhà của bác tôi nhìn mẹ khuất trong sương mù ở đầu chợ Hôm. Những chục năm đã qua, mẹ vẫn tần tảo nuôi con, bây giờ mẹ lại phải ra đi vì cơm áo. 

Tôi dời công viên, đạp xe lang thang trên đường phố Sài Gòn, tôi chẳng thiết ăn uống gì, mặc dầu trong túi có mấy chục bạc của mẹ cho, tôi phải mang về chia cho thằng em, nó cũng cần đồng quà tấm bánh của mẹ. Thôi xa rồi những bữa cơm canh cua rau đay cà pháo chấm mắm tôm. Tôi đạp xe qua trường học, các bạn tôi đã vào lớp, hôm nay vắng mặt tôi và có lẽ sẽ vắng mặt vĩnh viễn. 

Buổi chiều tôi đạp xe về khu trường đua Phú Thọ, qua con đường Nguyễn văn Thoại, còn là rừng cao su rợp bóng cây, bên phải con đường rải rác những nếp tranh toả khói lam chiều, sau lùm cây kia là xứ Nam Hoà, xứ đạo của người Bắc di cư, tôi nghe tiếng chuông nhà thờ và nghe tiếng cầu kinh bài kinh Lạy Cha: “Lạy cha chúng con ở trên trời…chúng con nguyện danh Cha cả sáng…nước Cha trị đến… ý cha thể hiện dưới đất cũng như trên Trời…Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày và tha nợ chúng con…như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ…hằng chữa chúng con cho khỏi sự dữ…A men..”, nắng chiều thoi thóp và tiếng cầu kinh sao mà buồn thế. 

Tôi có hẹn với Hoài Nam, tức Trần Dạ Từ, ở nhà Nguyễn Nhật Duật ở Bình Thới thuộc khu Phú Thọ. Khi đó tôi đói meo, nhưng vẫn không ăn gì. Trần Dạ Từ, có lẽ từ trong trại học sinh Phú Thọ ra, hỏi tôi câu đầu tiên: 

– Mẹ đi rồi hả? 

– Ừ mẹ đi rồi. 

Tôi trả lời thế, vì Trần Dạ Từ coi mẹ tôi cũng như mẹ anh. Tình thân ấy kéo dài suốt mấy chục năm trời cho đến bây giờ vẫn còn nguyên vẹn. Những đứa con của mẹ không bao giờ quên mẹ. 

Tôi đói quá, hỏi Nguyễn nhật Duật: 

– Nhà còn gì ăn không? 

– Cơm thì hết rồi, nhưng miếng cháy làm rượu thì còn, cậu ăn tạm nhé. 

Gia đình Nguyễn Nhật Duật thuở ấy nghèo lắm cũng như bao nhiêu người di cư khác, ông bà phải cất rượu đi bán để nuôi bầy con. Tôi ăn miếng cháy cơm rượu sao mà ngon thế, lần đầu tiên tôi phải ăn nhờ và tôi nhớ mãi không quên. 

Đêm hôm đó trăng sáng vằng vặc, khu Bình Thới, giáp ranh với đường Lạc Long Quân là một vườn hoa nhài, người miền Nam gọi là Hoa Lài thơm ngát. Sau một chầu cà phê ở quán Con Nhạn, trong khu vườn lài, chúng tôi ra ruộng hoa lài ngồi chơi, ngắm trăng, lòng dạ tôi rối bời vì nhớ mẹ, mẹ bây giờ đã ở bên Lào rồi, có lẽ mẹ cũng đang nhớ đến những đứa con của cụ. Không biết đêm nay cụ và em tôi ngủ nhờ nhà ai? Bà dì tôi đã thu xếp được một căn nhà nào chưa? Tôi lại muốn khóc. Khi đưa cụ đi tôi chưa khóc được, hoặc mới khóc được một ít. 

Tiếng thổi tiêu tài hoa của Trần Dạ Từ cất lên vi vút, tôi nhớ tiếng sáo này khi mới quen anh ở quán cà phê Gió Bắc ở đường Phan Đình Phùng, hoà với tiếng ở cái đĩa hát đa mòn hát bài Hướng Về Hà Nội của Hoàng Dương. Tôi thiếp đi trong giấc ngủ. Ngày hôm sau và nhiều hôm sau nữa tôi và Trần Dạ Từ bắt đầu cuộc sống bụi đời, chúng tôi thuê căn gác ở Bình Thới, nhìn xuống con đường Lạc Long Quân, đêm đêm nghe tiếng bánh xe bò di chuyển không biết nó về đến đâu, tiếng xe bò nghiến trên mặt đường đá âm thanh khô khốc… cái đèn bão treo ở gầm xe đung đưa. Chúng tôi không có nghề nghiệp gì, nghiệp thơ văn thì quá eo hẹp, những bài thơ của Trần Dạ Từ đăng báo thì không có tiền, những truyện ngắn của tôi viết còn dở quá nên bị toà báo vứt vào xọt rác là chuyện thường. Những buổi chiều bụng hai thằng đói meo, chúng tôi đèo nhau trên chiếc xe đạp cọc cạch thường xuyên xẹp lốp đi kiếm ăn, đúng ra là nhờ bạn bè cũng chưa có nghề nghiệp như hai đứa chúng tôi khúc bánh mì, hoặc quí giá là bao tô hủ tíu ăn không đủ no bụng…của đứa trẻ tuổi đang lớn. 

Rồi tôi nhập ngũ thời gian sau, từ trại huấn luyện tôi viết thư về cho Từ, Từ hồi âm, tôi còn nhớ câu Từ viết : “…cũng may mà cậu có cơm ăn, không còn đói như tớ bây giờ nữa, cố gắng lên…hãy ghi nhận lại tất cả.”. Giòng đời không xuôi chảy, sau đó tôi ở tù khám Chí Hoà mất một năm. Khu quân phạm. Mẹ tôi nghe tin từ bên Lào trở về, thăm nuôi tôi cụ mang vào cho tôi một bát canh cùng những đồ ăn thăm nuôi. Tôi nhớ mãi bát canh ngày hôm đó. Sau này tôi viết thành một truyện ngắn nhan đề là Bát Canh Của Mẹ, tôi trúng giải nhất của một tờ tuần báo. Rồi từ đó tôi vào hẳn nghề làm báo viết văn, cùng với bạn bè ngày xưa nay cũng đeo đuổi nghề làm báo viết văn. Từ đã có vợ là Nhã Ca, cũng là người làm thơ viết văn. Chúng tôi trôi nổi với nghề nghiệp qua nhiều chục năm trời. Mẹ tôi từ Lào lại về, gia đình đoàn tụ, thế là đủ… 

Cho đến ngày tôi trở thành kẻ ngã ngựa, rồi tù tội, mẹ vẫn không bỏ con, bỏ những đứa con không còn nhỏ dại gì, nhưng chúng quá khổ. Tôi lại gặp cụ ở phòng thăm nuôi, già yếu hốc hác. Con đường rừng hiểm trở, người thăm nuôi phải vịn nhau mà đi. Dù khổ sở nhưng tôi muốn được ở mãi bên mẹ. 

Buổi sáng sớm tinh mơ tôi không còn nghe tiếng dép lẹp kẹp của mẹ ở nhà bên cạnh nữa, những âm thanh quen thuộc mà thân yêu ấy cho đến ngày hôm nay và đã vĩnh viễn mất hẳn, như nhiều cái tôi đã mất trong đời. Mẹ tôi đã có lần hứa về thăm quê hương, nhưng sức khoẻ cụ không cho phép. 

Hai giờ rưỡi sáng, tôi đạp xe đạp vào phi trường tiễn mẹ. Phi trường đêm ấy lồng lộng gió. Tiễn mẹ đi đêm ấy, tôi linh cảm thấy không bao giờ còn được gặp mẹ nữa…Dáng cụ xiêu xiêu đi vào phòng cách ly, cụ lại dúi cho tôi những đồng tiền Việt Nam còn sót lại trong túi, như hồi mấy chục năm về trước. Phi trường bây giờ mở rộng khang trang hơn trước nhiều. Vì nghĩ chẳng bao giờ được gặp mẹ nữa, nên nước mắt tôi chảy ra, tôi khóc, như hồi nào ở số 38 ngõ Hoà Mã Hà Nội ngày mẹ tôi lên đường đi tìm cha tôi ở chiến khu Việt Bắc. Ngày đó tôi cũng sợ mất mẹ như bây giờ. Ngày đó chiến tranh dữ dội, mạng sống con người không có gì bảo đảm. Quê hương tôi vậy đó. 

Đoán chừng mẹ đã đi rồi, tôi đạp xe ra khỏi phi trường, ánh đèn huỳnh quang vàng dọc theo lối đi dài sao mà buồn thế. Phi trường vẫn lộng gió. Tôi đạp xe vòng sân bay qua Ngã Tư Bẩy Hiền, xuống chợ Bà Quẹo, ngồi uống cà phê ở một quán cóc bên đường nhìn lên trời lúc gần về sáng. Tôi hy vọng rằng mẹ tôi từ trên máy bay nhìn xuống thấy quê hương, thấy Sài Gòn, thấy Biên Hoà nơi để mộ phần của bố tôi. Tôi nhỏ bằng hạt bụi trong mắt cụ không thể nhìn thấy được, nhưng cụ tưởng tượng ra đứa con của cụ đứng lóng ngóng ở đâu đó trong đám chúng sinh nhỏ bé này. 

Nhiều buổi sáng thằng con út của tôi xách cái giỏ không ra cửa sổ đứng đón chờ bà nội để đưa quần áo giặt. Nó làm vì thói quen, vì nhớ bà nội. Con chó Ki thì bỏ ăn, nó nằm trên cái áo rách của mẹ tôi, về sau nó già quá rồi chết. Mười năm sau mưa gió đất xói mòn, bây giờ tôi không còn biết nấm mồ nó ở đâu, chỉ biết xương nó còn trong vườn. 

Tất cả chúng con đều nhớ mẹ, bàng hoàng khi nhận được tin mẹ qua đời. Cụ thọ vào bậc nhất rồi nhưng sao tôi vẫn buồn. Cụ mất ngày 13 tháng 8 âm lịch bên Mỹ, còn hai ngày nữa là tết Trung Thu ở Việt Nam. Hôm nay ở đây tôi làm lễ phát tang cho mẹ, đúng vào ngày rằm Trung Thu, tôi e rằng trời lại mưa, như nhiều năm tôi ở miền Nam không bao giờ tôi được ngắm trăng rằm. Ở miền nam này nói đến chuyện rước đèn đêm rằm Trung Thu là chuyện hy hữu. Vì mùa này là mùa mưa bão ở miền Nam, tôi chưa thấy trăng rằm tháng Tám bao giờ trong 50 năm sống ở miền Nam. Mấy hôm nay tin khí tượng lại cho biết một cơn áp thấp nhiệt đới thổi qua đất nước tôi. 

Thế mà đêm nay trời quang mây tạnh, tôi ra vườn sau ngồi pha trà ngắm trăng rằm. Tuy không sáng không đẹp như trăng rằm Trung Thu miền Bắc mà tôi đã sống thời thơ ấu. Tôi nhớ những đêm rằm trung thu ở Láng, mẹ tôi bầy cỗ cho tôi được chơi trò phá cỗ, rước đèn vòng quanh sân gạch. Rồi tôi ngủ thiếp đi trong lòng mẹ, trăng rằm trung Thu sáng vằng vặc. 

Tuổi thơ ấu không bao giờ trở lại với tôi nữa. Tôi muốn khóc vì nhớ mẹ, nhưng còn nước mắt nữa đâu. Một đời mẹ gầân một thế kỷ nổi trôi theo vận nước. Những đau thương này thay cho những giọt nước mắt của đứa con nay đã già. 

Rằm tháng Tám năm Gíáp Thân 

NGUYỄN THỤY LONG

KHÓC NGUYỄN THỤY LONG

NHẬT THỊNH

http://www.vannghesi.net/Articles/Mat%20Trai/Khoc%20Nguyen%20Thuy%20Long.html

Trở về

Danh Sách Tác Giả

http://phannguyenartist.blogspot.com/2015/10/danh-sach-tac-gia.html

Chân Dung Văn Nghệ Sĩ

http://phannguyenartist.blogspot.com/2017/02/chan-dung-van-nghe-sy-viet-nam-336-z.html

Emprunt Empreinte

http://phannguyenartist.blogspot.com/2011/05/phan-nguyen-oi-loi-cung-cac-tac-gia-va.html

MDTG là một webblog “mở” để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.

MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.
VIRGIL GHEORGHIU

Shoptinhyeu . vn thuoc115 . com bán các loại thuốc chống xuất tinh sớm, yếu sinh lý, thuốc cường dương tốt nhất thị trường

Thuốc viagra mua ở đâu bán ở đâu giá bao nhiêu rẻ nhất ?
Bạn liên hệ theo số điện thoại đường dây nóng bạn nhé
Nhà phân phối độc quyền
Tại TP HCM : 90/12 Cao Thắng, phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại 0928080808
Đại lý cấp 1 tại Hà Nội, miền Bắc : 243 Định Công Thượng, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại : 0936700000
Đại lý số 2 : 13 B10 mặt phố Phạm Ngọc Thạch, Quận Đống Đa, TP Hà Nội (nằm giữa ngã ba Phạm Ngọc Thạch với Lương Đình Của và Xã Đàn)

website :
shoptinhyeu . vn
thuoc115 . com
giaosutinhyeu . com

xem phim hài 18+

THURSDAY, DECEMBER 21, 2017 283. THÂN TRỌNG SƠN dịch và giới thiệu: TẤM THIỆP CHÚC MỪNG TRÊN TUYẾT Tản văn của nhà văn Trung Quốc BÀO NHĨ CÁT

Bào Nhĩ Cát  ( Bao’erji Yuanye   鲍尔吉   ) là nhà văn gốc người Mông Cổ, sinh năm 1958 tại thủ đô nhưng lớn lên  tại Xích Phong ( 赤峰 ), tây nam của Nội Mông, giáp ranh với tỉnh Liêu Ninh (  辽宁   ). Ông bắt đầu sáng tác năm 1981, vài bài thơ và một tiểu thuyết, đáng chú ý nhất là các truyện ngắn và tiểu luận, phản ánh quan điểm của ông về bản chất thiện của con người.

Bào Nhĩ Cát thường được xem là tác gia đã đem lại một lối diễn đạt riêng biệt cho thể loại ” tản văn ” ( san wen  散文   ). Theo  ông, muốn viết tản văn hay cần phải chú ý đặc biệt hai khía cạnh quan trọng: tâm linh ( 心灵 ) và ngôn ngữ  (  语言 ).

” Một tản văn hay phải diễn đạt sự phong phú, tính mẫn cảm, sự thuần khiết và tình yêu nhân loại của tác giả. Và muốn diễn tả tất cả những thứ đó, cần phải có một ngôn ngữ linh động và chính xác. Vả chăng, đó cũng là bí quyết cơ bản của mọi thứ văn chương.”

Với Bào Nhĩ Cát, tản văn là một thể loại khó, không loại trừ chút hài hước nhẹ nhàng, một nụ cười lặng lẽ phản ảnh đồng thời sự nhạy bén và lòng trắc ẩn. Tản văn phải xuất phát từ con tim.

Ông được nhắc đến như là một trong mười tác giả viết tản văn lớn nhất của Trung Quốc thập niên 1990 (  90 年代中国十大散文家   ).

Hiện nay, thể loại truyện cực ngắn ( xiao xiaoshuo / tiểu tiểu thuyết /  小小说   ) có khuynh hướng thể hiện gần giống với tản văn nên vai trò của Bào Nhĩ Cát ngày càng nổi bật.

Nhà văn Bào Nhĩ Cát

Năm nay ở Thẩm Dương tuyết rơi nhiều lắm, tuyết ngập đến đầu gối và ở đâu cũng thấy có những ông người tuyết thật to.

Một hôm đi làm về, tôi đi ngang qua một người tuyết như thế trong sân kia, tôi chú ý một điều lạ: có một mảnh giấy nhét nơi ngực. Vốn là người tò mò, tôi tới lấy tờ giấy ra đọc, đấy là một tấm thiệp chúc mừng có vẽ hình một cậu bé mặt dính đầy vết đỏ, ăn mặc kiểu cao bồi, tay quệt nước mũi. Trên tấm thiệp có ghi:

“Ông người tuyết thân mến,

Ông mập và trắng, đôi môi là những miếng vỏ cam, trông đẹp vô cùng. Tất nhiên ông không sợ lạnh rồi, nhưng ông có sợ đêm tối không?  Ông có đói không? Chúng ta kết bạn với nhau nhé!

Chúc ông tân niên hạnh phúc! vạn sự như ý!

Lưu Linh, nhị niên số 4, tiểu học Dương Quang.

24 tháng mười hai. ”

Tôi đã từng gởi và nhận thiệp chúc mừng, nhưng tấm thiệp này có vẻ hơi khác thường, rất cảm động.

Tôi thấy hơi ganh tị với ông người tuyết này vì những tình cảm chân thành ông đã gợi ra cho bé Lưu Linh.

Tôi để lại tấm thiệp trên ngực ông người tuyết, chỉ để nhìn thấy một góc. Nhưng về đến nhà rồi tôi vẫn không quên câu chuyện, tôi viết thiệp chúc mừng thay lời ông người tuyết gởi cho Lưu Linh. Tôi không biết làm như vậy có đúng không, tôi chỉ mong không xúc phạm tình cảm của đứa bé.

” Cháu Lưu Linh thân mến,

Ông rất vui khi nhận được thiệp của cháu. Bao nhiêu mùa đông rồi, nay là lần đầu tiên có người gởi thiệp mừng ông. Cháu là bạn quý của ông.

Chúc cháu học hành tiến bộ và lúc nào cũng vui.

Ông người tuyết.

31 tháng mười hai.”

Rồi tôi mang đi tấm thiệp có trang trí hình ông già Noel và chiếc xe kéo. Những ngày tiếp theo, tôi đến nhìn ông già tuyết xem thử Lưu Linh có đến không. Tôi nôn nóng muốn biết sớm. Ba ngày sau, tôi thấy một tấm thiệp khác nhét vào vai người tuyết, tôi vội vàng đến lấy đọc.

“Ông người tuyết thân mến,

Nhận được thiệp của ông, cháu nhảy lên vì sung sướng. Chuyện thần tiên trở thành hiện thực như thế này chăng?

Thế mà tụi bạn cháu ở trường bảo là trò bịp. Bố cháu thì nói có người lớn viết tấm thiệp đó. Ông làm ơn cho cháu biết có đúng như vậy không. Cháu cũng nghĩ là ông không thể viết được thiệp chúc mừng, nhưng còn người lớn đó, là ai vậy? Ông cho cháu biết được không? Trả lời đi ông, khẩn cấp đó! ( 15 dấu chấm than ).

Chúc ông vạn sự như ý, tâm tưởng sự thành!

Lưu Linh.

3 tháng một.”

Tôi để lại tấm thiệp vào chỗ cũ. Lưu Linh may mắn còn tin như thế. Tôi phải cẩn thận trong trò chơi này, tốt hơn tôi không nên tiếp tục, dù cho Lưu Linh có nóng ruột trông chờ hồi âm.

Và hôm qua, chiều chủ nhật, tôi đã nhìn thấy một bé gái đứng trước ông người tuyết, quay lưng về phía cửa sổ nhà tôi. Cô bé vướng víu trong bộ quần áo quá dày đến nỗi khó khăn mới th ò ng tay xuống được . Hẳn là Lưu Linh đây rồi. Cô bé đứng đó, người ngây ra, bên cạnh ông người tuyết, thỉnh thoảng vốc nắm tuyết đắp vào chỗ này chỗ kia. Màu vỏ cam trên môi ông người tuyết vẫn sáng rực như mọi ngày. Tôi không có can đảm để Lưu Linh hy vọng như thế, tôi có cảm tưởng mình đang lừa cháu ấy.  Nhưngtôi cũng không có can đảm phá giấc mơ của cháu. Tốt hơn là nên để cháu ngạc nhiên như vậy. Sau này, khi lớn lên, cháu sẽ kể cho các bạn nghe về câu chuyện tấm thiệp chúc mừng khó tin kia. Không gì hạnh phúc hơn một tuổi thơ với nhiều điều bí mật. 

THÂN TRỌNG SƠN

dịch theo bản tiếng Pháp

http://www.chinese-shortstories.com/Sanwen_Bao_erji_Yuanye_Deux_sanwen.htm
VIRGIL GHEORGHIU

Shoptinhyeu . vn thuoc115 . com bán các loại thuốc chống xuất tinh sớm, yếu sinh lý, thuốc cường dương tốt nhất thị trường

Thuốc viagra mua ở đâu bán ở đâu giá bao nhiêu rẻ nhất ?
Bạn liên hệ theo số điện thoại đường dây nóng bạn nhé
Nhà phân phối độc quyền
Tại TP HCM : 90/12 Cao Thắng, phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
Điện thoại 0928080808
Đại lý cấp 1 tại Hà Nội, miền Bắc : 243 Định Công Thượng, Hoàng Mai, Hà Nội
Điện thoại : 0936700000
Đại lý số 2 : 13 B10 mặt phố Phạm Ngọc Thạch, Quận Đống Đa, TP Hà Nội (nằm giữa ngã ba Phạm Ngọc Thạch với Lương Đình Của và Xã Đàn)

website :
shoptinhyeu . vn
thuoc115 . com
giaosutinhyeu . com